TRAN XUAN AN - TIEU LUAN 2

TRẦN XUÂN AN - TIỂU LUẬN 2

Wednesday, November 30, 2005

BÀI THỨ BA

Bài đã đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
số tháng 6-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
trong chương 13 [tệp 13a] tiểu thuyết MUÀ HÈ BÊN SÔNG
posted: 14.6.2005


TRẦN XUÂN AN
(Trần Nguyễn Phan)

ĐỌC LẠI "TUYÊN NGÔN ĐẢNG CỘNG SẢN" (1847 - 1848)
CỦA MÁC VÀ ĂNG-GHEN (K. MARX & F. ENGELS)


1.

Hơn hai mươi bốn năm sau khi bản "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản" được khởi viết (từ khoảng tháng một, tháng chạp 1847) và xuất bản lần thứ nhất (vào tháng hai 1848), ngày 24 tháng sáu, năm 1872, Mác và Ăng-ghen lại đề tựa cho lần xuất bản bằng tiếng Đức, thứ ngôn ngữ nguyên bản:
"Mặc dầu hoàn cảnh đã thay đổi nhiều trong hai mươi lăm năm qua, nhưng cho đến nay, xét về đại thể, những nguyên lí tổng quát trình bày trong Tuyên ngôn này hoàn toàn đúng. Ở đôi chỗ, có một vài chi tiết phải xem lại. Chính ngay Tuyên ngôn cũng đã giải thích rõ ràng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lí đó cũng phải tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II. Đoạn này, ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt cũng phải viết khác đi. [[...]: Trần Nguyễn Phan (TNP.) lược bớt]" (sđd., tr. 8 – 9 và tr. 21 – 22).
Về nền đại công nghiệp đã có sự tiến bộ vượt bậc và về giai cấp công nhân đã có chính đảng, tích luỹ được kinh nghiệm đấu tranh và nắm chính quyền (Công xã Paris 1871), Mác và Ăng-ghen viết tiếp lời tựa: "cho nên hiện nay cương lĩnh này có một số điểm đã cũ rồi" (sđd., tr. 8 – 9 và tr. 21 – 22).
" [...] Việc phê phán những văn phẩm xã hội chủ nghĩa chưa được đầy đủ [...]. Và cũng hiển nhiên là những nhận định về thái độ của người cộng sản đối với các đảng đối lập (chương IV) [các đảng đối lập của chế độ tư bản – TNP. chua thêm (ct.)], nếu cho đến nay vẫn còn đúng trên những nét cơ bản, thì trong chi tiết những nhận định ấy đã cũ rồi, vì tình hình chính trị đã hoàn toàn thay đổi và sự tiến triển lịch sử đã làm tiêu tan phần lớn những đảng được kể ra trong đó.
Tuy nhiên, Tuyên ngôn là một tài liệu lịch sử mà chúng tôi không có quyền sửa lại"
(sđd., tr. 8 – 9 và tr. 21 – 22).
Mác và Ăng-ghen khẳng định: những nguyên lí tổng quát vẫn hoàn toàn đúng; phải linh hoạt áp dụng những nguyên lí ấy tuỳ hoàn cảnh cụ thể; không câu nệ vào biện pháp cách mạng đã nêu ra một cách máy móc...
Trên tinh thần đó, Lê-nin (Lênine) nhận định về bản "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản" (1847 – 1848): "Cuốn sách mỏng đó có giá trị bằng nhiều pho sách dày: toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh, cho đến ngày nay, sống và hoạt động nhờ có tinh thần của cuốn sách đó" (dẫn theo sđd., tr. 102).
Quả thật, đó là một cuốn sách mỏng. Với bản in tiếng Việt, xuất bản lần thứ tám, của Nhà Xuất bản Sự Thật – Hà Nội, 1974, nguyên trọn nội dung thực sự của Tuyên ngôn chỉ vỏn vẹn sáu mươi trang sách, cỡ 13 cm x 18,8 cm, từ trang 41 đến trang 101. Phần trước và phần sau các trang đó là các lời tựa của những lần xuất bản và các chú thích của Nhà Xuất bản Sự Thật. Phần mục lục của Tuyên ngôn đã trình bày khái quát về nội dung của nó. Xin trích nguyên văn:
"I. [Chương I: - TNP. ct.] Tư sản và vô sản [tr.] 42
II. [Chương II:] Những người vô sản và những người cộng sản [tr.] 66
III. [Chương III:] Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa [tr.] 81
1. Chủ nghĩa xã hội phản động: [tr.] 81
a) Chủ nghĩa xã hội phong kiến [tr.] 81
b) Chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản [tr.] 84
c) Chủ nghĩa xã hội Đức hay chủ nghĩa xã hội "chân chính" [tr.] 86
2. Chủ nghĩa xã hội bảo thủ hay chủ nghĩa xã hội tư sản [tr.] 91
3. Chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán và chủ nghĩa cộng sản không tưởng phê phán [tr.] 94
IV. [Chương IV:] Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập [tr.] 99"
(sđd., tr. 117 – 118).
Trong các chương mục trên, hai chương Tư sản và vô sản, Những người vô sản và những người cộng sản là cốt tuỷ nhất.

2.

Điều tôi quan tâm nhất là chủ nghĩa thực dân của giai cấp tư sản và quá trình kháng chiến, phong trào giành độc lập dân tộc ở các nước bị xâm lược.
Sự xâm lược, cướp bóc, chiếm đóng, bành trướng lãnh thổ và đồng hoá dân tộc về mặt huyết thống lẫn văn hoá (gồm cả tôn giáo) không phải mới xuất hiện vào các thế kỉ từ XVI đến giữa thế kỉ XIX, thời điểm Mác và Ăng ghen viết Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (1847). Xâm lược, thực dân (kể cả chiếm đất, bóc lột, tiêu diệt dân tộc bản xứ, di dân chính quốc đến vùng đất mới xâm chiếm) vốn xuất phát từ dục vọng tham tàn của sinh vật con người (cũng như tình trạng di thực của mọi sinh vật cấp thấp khác), kể từ khởi thuỷ đến nay, và dĩ nhiên dục vọng tham tàn ấy, ở con người, có tính giai cấp (bấy giờ là tư sản) và tính thời đại (bấy giờ là công nghiệp). Nhưng vào cuối năm 1847, lúc Mác và Ăng-ghen viết dòng thứ nhất bản thảo Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, giai cấp phong kiến quân chủ và giai cấp tư sản Âu Mỹ đã và đang tiến hành xâm lược tàn bạo các nước châu Phi, châu Mỹ và các nước Phương Đông một cách khốc liệt (riêng ở cảng Sơn Trà, Đà Nẵng của nước ta, thực dân Pháp vừa gây hấn bằng cách bắn chìm mấy chiến thuyền của quan quân triều Thiệu Trị rồi bỏ chạy), bấy giờ, Mác và Ăng-ghen có những suy nghĩ, thái độ và chủ trương chính trị gì?
Hầu như mối bận tâm nhất của Mác và Ăng-ghen là trình bày luận điểm "lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp" (sđd., tr. 42). Kế đó, là sự hình thành giai cấp tư sản trong lòng xã hội phong kiến châu Âu và quá trình tích luỹ tư bản của nó, gồm cả việc xâm lược, cướp bóc tài nguyên, sức lao động ở các nước châu Phi, châu Mỹ và các nước Phương Đông:
"Việc tìm ra châu Mỹ và con đường biển vòng châu Phi đã đem lại một địa bàn hoạt động mới cho giai cấp tư sản vừa mới ra đời. Những thị trường Đông Ấn và Trung Quốc, việc thực dân hoá châu Mỹ, việc buôn bán với thuộc địa, việc tăng thêm nhiều phương tiện trao đổi và nói chung, tăng thêm nhiều hàng hoá, đã đem lại cho thương nghiệp, cho hàng hải, cho công nghiệp một sự phát triển chưa từng có, và do đấy đã đem lại một sự phát triển mau chóng cho yếu tố cách mạng trong xã hội phong kiến đang tan rã" (sđd., tr. 44).
... "Nó đã tiến hành những cuộc viễn chinh khác hẳn những cuộc xâm lăng và những chiến tranh thập tự 42" (sđd., tr. 48).
... "Vì luôn luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ mới, giai cấp tư sản xâm lấn khắp hoàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, khai thác khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi" (sđd., tr. 49).
... "Thay cho những nhu cầu cũ được thoả mãn trong nước, thì nảy sinh ra những nhu cầu mới, đòi hỏi được thoả mãn bằng những sản phẩm đưa từ những miền và xứ xa xôi nhất về" (sđd., tr. 49).
... "Mặt khác, bằng cách chiếm những thị trường mới và bóc lột triệt để hơn nữa những thị trường cũ" (sđd., tr. 53).
Cũng về tình trạng thực dân ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa, hai lãnh tụ vô sản đã viết với tư duy và cảm xúc châu Âu, gây cho người đọc vốn là nhân dân các nước bị xâm lược cảm giác khó chịu, nếu không muốn nói là bất bình, mặc dù rất đồng cảm khi thấy đồng thời Mác và Ăng-ghen hướng mũi dùi công kích chủ yếu vào giai cấp tư sản, bọn thực dân viễn chinh:
"Nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh. Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn lí trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách ngoan cường nhất phải hàng phục. Nó buộc tất cả các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư sản, nếu không sẽ bị tiêu diệt; nó buộc tất cả các dân tộc phải du nhập cái gọi là văn minh, nghĩa là phải thành tư sản. Nói tóm lại nó tạo cho nó một thế giới theo hình ảnh của nó" (sđd., tr. 50).
"Cũng như nó đã bắt nông thôn phụ thuộc vào thành thị, bắt những nước dã man hay nửa dã man phải phụ thuộc vào các nước văn minh, nó bắt những dân tộc nông dân phải phụ thuộc vào những dân tộc tư sản, bắt Phương Đông phải phụ thuộc vào Phương Tây" (sđd., tr. 50).
Nói chung, hầu như mối quan tâm nhất của Mác và Ăng-ghen, như đã nói, là trình bày về quá trình tích luỹ tư bản của tư sản châu Âu, và vừa công kích, vừa thừa nhận sự phát triển nhanh chóng không thể tưởng của giai cấp tư sản da trắng; đồng thời trình bày sự hình thành của giai cấp công nhân vô sản, nói theo cách của Tuyên ngôn, là giai cấp được sinh ra từ nền sản xuất tư bản, đồng thời cũng chính là giai cấp sẽ "đào huyệt chôn" giai cấp thân sinh mình (sđd., tr. 65), và cũng không thể không nói đến sự tha hoá, vong thân của giai cấp công nhân trong quan hệ sản suất tư bản chủ nghĩa. Khái niệm và thực chất của hai từ "dã man", "văn minh", Mác và Ăng-ghen cũng hiểu theo kiểu "châu Âu là trung tâm", là cái rốn của vũ trụ! Và lạ thay, nhưng xét cho cùng cũng không có gì lạ, khi Mác và Ăng-ghen không hề bày tỏ niềm chia sẻ khổ đau và tủi nhục cùng những dân tộc bị xâm lược, thậm chí bị diệt chủng bởi thực dân da trắng.
Tuy vậy, Mác và Ăng-ghen vẫn có đề cập đến sự bóc lột giữa các dân tộc, nhưng chỉ được hai câu:
"Hãy xoá bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ.
Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo"
(sđd., tr. 76).
Phải chăng hai câu ấy không phải đề cập đến độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước? Ai cũng hiểu rằng, "nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác" chưa diễn đạt đầy đủ nội hàm của hai thuật ngữ độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước. Một dân tộc này có thể thống trị một dân tộc khác, sáp nhập đất nước của dân tộc bị trị vào lãnh thổ của nước thống trị, nhưng vẫn bình đẳng về kinh tế. Dân tộc Hán ở Trung Hoa sáp nhập cả mươi nước khác, vừa cả đất nước, vừa cả dân tộc vào tay mình là một ví dụ. Liên Xô gồm nước Nga với mười hai nước cộng hoà trước đây (vừa tuyên bố độc lập vào năm 1991) là một ví dụ khác.
Công xã Paris 1871, đã thực sự nắm chính quyền ở Pháp, mặc dù ngắn ngủi về thời gian, nhưng cũng kịp để trao trả Nam Kì cho Đại Nam nước ta, tuy nhiên Công xã Paris cũng không hề có nghĩa cử hợp với công lí ấy!
Bốn mươi tư năm trôi qua, kể từ ngày Tuyên ngôn ra đời, mãi cho đến ngày 10 tháng hai 1892, sau khi cung cấp một thông tin về sự vong bản kì quặc và bi thảm của công nhân Ba Lan là "họ thiết tha muốn Nga hoá tất cả mọi người Ba Lan" (sđd., tr. 34) vì quyền lợi kinh tế (trong sự cạnh tranh giữa giới chủ Ba Lan và giới chủ Nga), Ăng-ghen viết:
"Nhưng sự phục hồi nước Ba Lan tự trị hùng mạnh là điều tất cả chúng ta đều mong muốn chứ không phải riêng gì người Ba Lan. Chỉ có thể có được sự hợp tác quốc tế thành thực giữa các dân tộc châu Âu khi nào mỗi dân tộc đó là người chủ tuyệt đối trong nhà mình" (sđd., tr. 34 - 35).
Ngày 01 tháng hai, 1893, trong một lời tựa cho lần xuất bản “Tuyên ngôn” bằng tiếng Ý vào năm đó, Ăng-ghen viết:
"Không khôi phục lại độc lập và thống nhất cho từng dân tộc thì về phương diện quốc tế, không thể thực hiện được sự đoàn kết của giai cấp vô sản và sự hợp tác hoà bình và tự giác giữa các dân tộc đó để đạt tới những mục đích chung" (sđd., tr. 38).
Tuy có nói đến việc "khôi phục lại độc lập và thống nhất cho từng dân tộc" nhưng Ăng-ghen vẫn xem đó chỉ là việc phải thực thi để tạo được điều kiện cần thiết, mà điều kiện cần thiết ấy cũng chỉ nhằm phục vụ cho mục tiêu tối thượng là cách mạng vô sản trên toàn thế giới! Nói cách khác, cách mạng vô sản mới là chủ trương chính, là mục đích chủ yếu và nhiệm vụ trọng tâm, nhưng không thể thực thi và đạt được nếu không tạo ra điều kiện tiên quyết, đó là "khôi phục lại độc lập và thống nhất cho từng dân tộc". Mặc dù Ăng-ghen đã thấy ra điều ấy, nhưng cũng chỉ giới hạn tầm nhìn vào việc khôi phục độc lập dân tộc, thống nhất đất nước cho các nước châu Âu mà thôi!
Mác cũng có nói về cái nhục của Ý lệ thuộc vào Áo, Đức lệ thuộc vào Nga. Cũng theo Ăng-ghen trong lời tựa trên, về ý kiến ấy của Mác:
"Hai dân tộc lớn đó được phục hồi và có thể thu hồi bằng cách này hay cách khác nền độc lập của mình thì theo ý kiến của Mác, đó là do chính ngay những kẻ đàn áp cuộc cách mạng 1848 [Louis Bonaparte, Pháp; Bismark, Đức – TNP. ct.] đã trở thành những người chấp hành di chúc của cuộc cách mạng đó, bất chấp ý muốn của họ là thế nào" (sđd., tr. 36 – 37).
Nhãn quan của Mác và Ăng-ghen cho dù sáng suốt cũng chỉ là nhãn quan của người châu Âu với tâm lí "châu Âu là trung tâm"!

3.

Điều quan tâm lớn thứ hai của tôi: chủ nghĩa tam vô (vô Tổ quốc, vô gia đình và vô tôn giáo). Có thật Mác và Ăng-ghen chủ trương như thế?
Chương II của "Tuyên ngôn Đảng cộng sản" (1847 – 1848) có nhiều đoạn viết về vấn đề này, sau vấn đề lớn nhất là vô sản hoá hay công hữu hoá nền sản xuất để người công nhân vô sản thành người cộng sản vừa nắm chính quyền, vừa quản lí nền sản xuất và điều hành tất cả mọi lĩnh vực xã hội khác. Chủ nghĩa tam vô cũng được đặt sau các vấn đề cực kì to lớn khác: tính độc lập cá nhân và cá tính, tự do, thương nghiệp, tư hữu, cái cá nhân, văn hoá, pháp quyền. Tất nhiên, biện pháp tiên quyết của cách mạng vô sản là giành chính quyền bằng bạo lực cách mạng, nhưng trong chương II này, biện pháp ấy lại được đặt sau cái thường gọi là chủ nghĩa tam vô.
Mác và Ăng-ghen miêu tả thực trạng của giai cấp vô sản công nghiệp Âu Mỹ dưới sự bóc lột của giai cấp tư sản ở hai châu lục đó, sau khi đã khu biệt với bộ phận "vô sản lưu manh" (sđd., tr. 60):
"Điều kiện sinh hoạt của xã hội cũ đã bị xoá bỏ trong những điều kiện sinh hoạt của giai cấp vô sản. Người vô sản không có tài sản; [về gia đình, TNP. nhấn mạnh] quan hệ giữa anh ta với vợ con không còn giống một chút nào với những quan hệ gia đình tư sản; [về dân tộc, TNP. nhấn mạnh] lao động công nghiệp hiện đại, tình trạng người công nhân làm nô lệ cho tư bản, ở Anh cũng như ở Pháp, ở Mỹ cũng như ở Đức, làm cho người vô sản mất hết tính chất dân tộc. [Về tôn giáo v.v., TNP. nhấn mạnh] Luật pháp, đạo đức, tôn giáo đều bị người vô sản coi là những thành kiến tư sản che giấu những lợi ích tư sản" (sđd., tr. 60 - 61).
Đó là thực trạng biến đổi về quan hệ gia đình (chưa xác lập vững chắc quan hệ gia đình kiểu mới, vợ chồng đều làm công ăn lương); thực trạng bị tha hoá, vong thân về tính chất dân tộc; và cũng là thực trạng, nhưng ở khía cạnh khác, về luật pháp, đạo đức, nhất là về Thiên Chúa giáo, Tin Lành giáo, lại là sự nhận thức sáng suốt của giai cấp vô sản – công nhân Âu Mỹ, thuở bấy giờ. Thực trạng đó đã được hai lãnh tụ vô sản nhìn thẳng vào sự thật. Nhưng còn ý thức hệ và chủ trương?

Về vô gia đình?

Trong "Tuyên ngôn Đảng cộng sản" (1847 – 1848), vấn đề này thực sự là những lời tranh luận của hai lãnh tụ vô sản với các giai cấp, thành phần phản động:
"Xoá bỏ gia đình! Ngay những người cấp tiến nhất cũng phẫn nộ về cái ý định xấu xa ấy của những người cộng sản.
Gia đình tư sản hiện nay dựa trên cơ sở nào? Dựa trên tư bản, trên lợi nhuận cá nhân. Gia đình, dưới hình thái hoàn toàn phát triển của nó, chỉ tồn tại đối với giai cấp tư sản thôi, nhưng nó lại kèm theo sự bắt buộc phải thủ tiêu mọi gia đình đối với người vô sản và kèm theo nạn mãi dâm công khai.
Gia đình tư sản dĩ nhiên là sẽ tiêu tan cùng với cái kèm theo nó, và cả hai cái đó [gia đình kiểu tư sản, lợi nhuận cá nhân (hoặc sự thủ tiêu tính gia đình tạm bợ kiểu vô sản, nạn mãi dâm công khai) – TNP. ct.] đều mất đi cùng với tư bản.
Các ông trách chúng tôi là muốn xoá bỏ hiện tượng cha mẹ bóc lột con cái chăng? Tội ấy, chúng tôi xin nhận.
Nhưng các ông lại bảo rằng chúng tôi đập tan những mối liên hệ thân thiết nhất bằng cách đem giáo dục xã hội thay cho giáo dục gia đình.
Thế nền giáo dục của các ông, há chẳng phải cũng do xã hội quyết định đó sao? Há chẳng phải do điều kiện xã hội trong đó các ông nuôi dạy con cái các ông, do sự can thiệp trực tiếp hay không trực tiếp của xã hội, do nhà trường v.v. quyết định là gì? Người cộng sản không bịa ra tác động xã hội đối với giáo dục; họ chỉ thay đổi tính chất của tác động ấy và kéo giáo dục ra khỏi ảnh hưởng của giai cấp thống trị mà thôi.
Đại công nghiệp càng phá huỷ mọi liên hệ gia đình trong giai cấp vô sản và càng biến các trẻ em thành chỉ là những món hàng mua bán, chỉ là những công cụ lao động, thì những lời huênh hoang của giai cấp tư sản về gia đình và giáo dục, về những mối liên hệ thân thiết gắn bó con cái với cha mẹ, lại càng trở nên ghê tởm.
Nhưng bọn cộng sản các anh, muốn thực hành chế độ cộng thê [vợ chung – TNP. ct.]. – Toàn thể giai cấp tư sản đồng thanh tru tréo lên như vậy.
Đối với người tư sản, vợ hắn chẳng qua chỉ là một công cụ sản xuất. Cho nên nghe nói công cụ sản xuất phải được đem dùng chung thì tự nhiên là hắn kết luận rằng chính đàn bà rồi cũng phải chịu cái số phận chung là bị xã hội hoá.
Hắn không ngờ rằng vấn đề ở đây chính là kéo đàn bà ra khỏi vai trò hiện nay của họ là một công cụ sản xuất đơn thuần.
Vả lại, không có gì lố bịch bằng sự ghê sợ quá ư đạo đức của những nhà tư sản đối với cái gọi là cộng thê chính thức mà hình như những người cộng sản sẽ chủ trương. Những người cộng sản không cần phải du nhập chế độ cộng thê; chế độ ấy hầu như đã luôn luôn tồn tại.
Các ngài tư sản chưa thoả mãn là đã sẵn có vợ và con gái của vô sản để dùng, đó là chưa kể chế độ mãi dâm công khai, các ngài ấy còn lấy việc cắm sừng lẫn nhau làm một thú vui đặc biệt.
Hôn nhân của giai cấp tư sản thật ra là chế độ cộng thê. Quá lắm thì người ta có thể buộc tội những người cộng sản là muốn đem một chế độ cộng thê công khai và chính thức thay cho chế độ cộng thê che đậy một cách giả nhân giả nghĩa mà thôi. Nhưng với sự xoá bỏ chế độ sản xuất hiện tại [nền sản xuất tư bản chủ nghĩa – TNP. ct.] thì dĩ nhiên là chế độ cộng thê do chế độ sản xuất ấy đẻ ra, tức là chế độ mãi dâm chính thức và không chính thức, cũng sẽ biến mất"
(sđd., tr. 73 – 75).
Quả thật, Mác và Ăng-ghen khi bàn đến tự do, hai ông viết trong Tuyên ngôn một cách rất mỉa mai về cá tính, tính độc lập và tự do cá nhân tư sản, sau đó, lại viết tiếp:
"... Trong những điều kiện hiện tại của sản xuất tư sản thì tự do có nghĩa là tự do buôn bán, tự do mua và bán.
[...]
... những luận điệu và lời nói đó không còn ý nghĩa gì nữa, khi vấn đề đặt ra là chủ nghĩa cộng sản phải xoá bỏ buôn bán, xoá bỏ chế độ sản xuất tư sản và xoá bỏ ngay cả giai cấp tư sản nữa"
(sđd., tr. 70).
Cách viết đầy tính tranh luận với thủ pháp mỉa mai thường thấy (phủ định bằng cách khẳng định với cấu trúc câu tuy bình thường nhưng ngữ nghĩa "nghịch lí", đặt trong một văn cảnh nhất định), khiến nhiều người có thể liên hệ là chủ nghĩa cộng sản sẽ lấy "chế độ cộng thê công khai và chính thức" (xã hội thừa nhận vợ chung một cách công khai trong đời sống và chính thức trên pháp luật) để thay thế "chế độ mãi dâm chính thức và không chính thức" do chính nền sản xuất tư bản – buôn bán đẻ ra, một khi mua dâm và bán dâm "cũng sẽ biến mất" (bởi "chủ nghĩa cộng sản phải xoá bỏ buôn bán", kể cả buôn bán tình dục, nghĩa là không còn có gái đĩ bán dâm lấy tiền, các tú bà buôn thịt bán người). Nói cách khác, "quan hệ sản xuất tư bản – buôn bán" vốn phản ánh vào các quan hệ xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa, ngay trong việc mại dâm và mãi dâm; còn "quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa – xoá bỏ buôn bán" thì phản ánh vào các quan hệ xã hội của xã hội xã hội chủ nghĩa, nên trong lĩnh vực tình dục ngoại hôn dâm dãng cũng sẽ cho không biếu không, hoặc được phân phối theo tem phiếu! Nói vắn tắt, như thế là cách mạng tình dục đến mức "thả giàn [thả ràn]", do đó xã hội không còn đĩ điếm nữa! Thật là một sự hiểu lầm hoặc xuyên tạc khủng khiếp và nguy hại?!? Chẳng lẽ sau mấy chục ngàn năm tiến hoá và tự xây dựng nên những nền văn hiến của mình, loài người lại trở về với đời sống tình dục bầy đàn, quần hôn, tạp hôn, thời công xã nguyên thuỷ?!?
Nếu đọc kĩ những gì Mác và Ăng-ghen đã viết về vấn đề gia đình dưới hình thức tranh luận trong Tuyên ngôn, ta thấy: Một mặt, kết án chủ nghĩa tư bản đã thủ tiêu gia đình của người vô sản. Mặt khác, khẳng định dưới chủ nghĩa cộng sản người phụ nữ sẽ được giải phóng để tham gia vào hoạt động xã hội chứ không chỉ làm chức năng sinh đẻ (máy đẻ); cha mẹ giai cấp công nhân sẽ không bóc lột sức lao động của con cái; chủ nghĩa cộng sản xem giáo dục của nhà trường là chính, so với giáo dục gia đình, "kéo giáo dục ra khỏi ảnh hưởng của giai cấp thống trị". Tuy nhiên, gia đình chỉ được đề cập đến với ba đối tượng: vợ, chồng và con. Đó là kiểu gia đình "hạt nhân" (hình thức gia đình chỉ gồm các thành viên chính, không phải hình thức gia đình tam hoặc tứ đại đồng đường, không phải đại gia đình gồm nhiều gia đình "hạt nhân" thúc bá trực hệ quây quần).
Có lẽ cần nói rõ hơn về khía cạnh vô gia đình. Bởi lẽ giai cấp công nhân châu Âu vốn là nông dân bị bứt khỏi ruộng đất và đồng cỏ chăn nuôi của họ để lang thang kiếm sống ở các thành thị đang mở mang nhà máy, xí nghiệp công nghiệp, vì vậy đa số trong họ đều rơi vào tình cảnh vô gia đình, với nghĩa độc thân. Bởi lẽ khác, nếu có gia đình, cả hai vợ chồng và cả con cái chưa đến tuổi lao động cũng đều phải đi làm cho giới chủ công nghiệp, mỗi ngày phải lao động đến 16 hoặc 18 tiếng đồng hồ, cho nên có gia đình cũng như vô gia đình (chẳng còn chút thì giờ nào dành cho các quan hệ thân mật!).
... mỗi gốc cây, một xác người công nhân!...
... mỗi ngày hai bữa cơm đèn
lấy gì má phấn răng đen hỡi chàng!

Đó là tình cảnh gia đình người công nhân Việt Nam bị bóc lột ngày công lao động, ba giờ sáng đã dậy thổi cơm, chín giờ tối mới ăn bữa cơm chiều! Tình trạng bị giới chủ tư sản bóc lột thậm tệ của công nhân Mỹ cũng rất ghê gớm. Thiên tài điện ảnh câm Charlie Chaplin (Charlot), qua một số đoạn phim ”Thời đại tân kì (Modern times)” , đã miêu tả đời sống giai cấp công nhân Mỹ đầu thế kỉ XX, để nói lên tình cảnh tủi nhục của họ, đồng thời nhằm lên án giai cấp tư sản: con cái thất học, trộm cắp; bản thân cùng đồng nghiệp như một bầy súc vật mỗi ngày bị lùa vào nhà máy theo tiếng còi tầm, và cũng theo tiếng còi tầm, khi nhà máy nhả ra, thân thể công nhân rã rời héo rũ; có người lại bị hệ thống sản xuất dây chuyền hành hạ đến mức rối loạn tâm thần, nhìn hạt nút trên áo phụ nữ cũng ngỡ là chiếc bù loong! Tuy vậy, với hạn chế của bản thân Charlie Chaplin và của người công nhân ấy, anh ta và cô gái khốn khổ vẫn không giác ngộ giai cấp để đấu tranh cách mạng, cuối cùng dắt tay nhau đến một thiên đường huyễn hoặc xa xăm hay một vùng đất địa đàng hoang vu nào đó! Rất đáng tiếc, với họ bấy giờ, ở trần gian này, dưới Gót sắt tư sản, gia đình là cả một gánh nặng bi thảm, không lối thoát.
Vả lại, gia đình kiểu "hạt nhân" chỉ gồm ba thành phần chính này hình thành là bởi tình trạng người vô sản bị bứt gốc, bật gốc khỏi quê quán, không thể có các thành phần khác: cha chồng (ông), mẹ chồng (bà), anh em của chồng (chú, bác, cô), cho nên vô gia đình ở đây là tình cảnh không có bà con họ hàng thân thuộc... Vô gia đình được hiểu với các nghĩa như thế.
Nói một cách khái quát, nếu bản thân giai cấp công nhân châu Âu, thuộc địa Viễn Đông và các châu lục khác, ở thế kỉ XIX, vừa mang trong mình một tính cách ưu việt do phương thức sản suất công nghiệp quy định, thì cũng bởi điều kiện sống tăm tối, tồi tệ do bị bóc lột đó, họ cũng đồng thời bị hình thành một nếp cảm nghĩ kiểu vô gia đình! Không chỉ là cảm nghĩ, bởi theo Mác và Ăng-ghen, hai vị lãnh tụ vô sản này đã đọc "những tài liệu rất có giá trị để soi sáng ý thức công nhân", mà "xoá bỏ gia đình" là một trong những đề nghị tích cực tuy còn không rõ rệt và lờ mờ nên trở thành không tưởng (sđd., tr. 96).
Về sau, qua sự cọ xát nếp cảm nghĩ đã thành ý thức ấy vào thực tiễn đấu tranh, và một khi chủ nghĩa xã hội đã thành hiện thực, cuộc sống giai cấp công nhân thực sự được cải thiện và nâng cao, ở Liên Xô dần dần hình thành một quan điểm về nạn mãi dâm và hôn nhân - gia đình cụ thể hơn. Nếu ở xã hội tư bản, "sự mãi dâm được hợp pháp hoá trở thành cái bổ sung cho hôn nhân" (1Tng), thì ở xã hội xã hội chủ nghĩa "quan hệ hôn nhân – gia đình không có sự đồi bại đó [TNP. nhấn mạnh], quan hệ dựa trên tình yêu, tình bạn và lòng tin cậy lẫn nhau, đã nảy sinh và phát triển trong giai cấp vô sản"; "tình yêu, sự tôn trọng lẫn nhau, sự chăm lo giáo dục con cái, sự săn sóc của con cái đã trưởng thành đối với cha mẹ [TNP. nhấn mạnh] – đó là những nguyên tắc đạo đức quan trọng nhất của gia đình trong xã hội xã hội chủ nghĩa" (1Tng).

Về vô Tổ quốc, vô dân tộc?

“Tuyên ngôn Đảng cộng sản (1847 – 1848)” được Mác và Ăng-ghen viết tiếp, nhưng không phải là phủ nhận lời cáo buộc của những giai cấp, thành phần đối lập:
"Ngoài ra, người ta còn buộc tội những người cộng sản là muốn xoá bỏ Tổ quốc, xoá bỏ dân tộc.
Công nhân không có Tổ quốc. Người ta không thể cướp cái mà họ không có. Vì giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc 1*, phải tự mình trở thành dân tộc, cho nên do đấy họ vẫn còn có tính chất dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu.
Với sự phát triển của giai cấp tư sản, tự do buôn bán, thị trường thế giới, sự đồng đều của sản xuất công nghiệp và những điều kiện sinh hoạt thích ứng với sản xuất ấy thì những sự cách biệt dân tộc và những sự đối lập giữa nhân dân các nước [TNP. nhấn mạnh] cũng đã ngày càng mất đi.
Giai cấp vô sản nắm chính quyền sẽ càng làm cho những sự cách biệt và những sự đối lập ấy mất đi nhanh hơn [TNP. nhấn mạnh]. Hành động chung của giai cấp vô sản, ít ra là ở những nước văn minh, là một trong những điều kiện đầu tiên cho sự giải phóng của họ 46.
Hãy xoá bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ.
Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo"
(sđd., tr. 75 - 76).
Tổ quốc và dân tộc là hai vấn đề thường được và phải được kết hợp làm một, nhưng vẫn là hai vấn đề khác nhau! (Tôi cũng phân biệt hai khái niệm dân tộc và nhân tộc; một dân tộc thường là gồm nhiều nhân tộc hợp lại). Khái niệm giai cấp với nội hàm do Mác và Ăng-ghen định nghĩa, lại được hai ông đặt cao hơn cả dân tộc, trong khi giới thuyết rõ sự khác nhau giữa người vô sản với người cộng sản:
"Những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản khác trên hai điểm: một là, trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ [tức là những người cộng sản – TNP. ct.] đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc [TNP. nhấn mạnh] và chung cho toàn thể giai cấp vô sản; hai là, trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào" (sđd., tr. 66 – 67).
Ở một đoạn trước, trong chương I, Mác và Ăng-ghen viết rõ hơn:
"Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc [TNP. in đậm]" (sđd., tr. 62).
Nói cụ thể hơn, lợi ích giai cấp vô sản thế giới là tất cả và trên hết!
Do đó, ta không lạ gì về câu khẩu hiệu nổi tiếng cuối bản “Tuyên ngôn”, thường được xem như đặc trưng, tiêu biểu cho chủ nghĩa Mác là: "Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!" (sđd., tr. 101). Sự thiếu sót về độc lập đất nước của các dân tộc (gồm nhiều nhân tộc) bị áp bức là rất rõ ràng.
Vô Tổ quốc và vô dân tộc trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (1847 – 1848)” là hai vấn đề nhức nhối đối với người theo Tổ quốc luận, chủ nghĩa yêu nước. Ngay ở Liên Xô, đến năm 1975, “Từ điển triết học” còn có đoạn viết:
"Trong xã hội tư sản, giai cấp công nhân không có Tổ quốc, nhưng xét về bản tính xã hội của mình thì nó là giai cấp tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước chân chính. Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, bản chất xã hội của Tổ quốc cũng thay đổi, chủ nghĩa xã hội – đối tượng của niềm tự hào dân tộc và là Tổ quốc chân chính của những người lao động [TNP. in đậm] – trở thành yếu tố chủ yếu của nó, chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa có tính chất toàn dân được hình thành, gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế" (2Tng).
Trong đoạn trích dẫn từ “Từ điển triết học” trên, tôi lưu ý đến bốn chữ "chủ nghĩa xã hội" và định ngữ của nó, được đặt trong hai dấu gạch ngang: "– đối tượng của niềm tự hào dân tộc và là Tổ quốc chân chính của những người lao động –". Nói cách khác, Tổ quốc chính là chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội là đối tượng hướng đến của niềm tự hào dân tộc. Hoặc có thể lược bớt định ngữ để hiểu đúng:
"... bản chất xã hội của Tổ quốc cũng thay đổi, chủ nghĩa xã hội [...] trở thành yếu tố chủ yếu của nó... [TNP. in đậm]".
Đó là quan niệm của Liên Xô. Liên Xô là một liên bang gồm mười ba nước, hầu hết mỗi nước đều vốn là một quốc gia độc lập, đều có truyền thống lâu đời, đều có lịch sử riêng, nay gộp chung lại thành một liên bang, tất nhiên đứng đầu vẫn là Nga. Do đó, quan niệm về Tổ quốc của Nhà nước Liên bang Xô-viết phải trừu tượng, mơ hồ và đầy tính chất quan phương như thế.
Về vấn đề dân tộc, “Từ điển triết học” của Liên Xô viết:
"... ở Liên Xô đã hình thành một cộng đồng lịch sử mới - nhân dân xô-viết. Đó không phải là một cộng đồng dân tộc, mà là cộng đồng quốc tế [TNP. in đậm], và việc hình thành nó là sự toàn thắng của các nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa" (3Tng).
"Sau khi chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn thắng lợi, sự xích lại gần nhau một cách toàn diện của các dân tộc sẽ làm cho những khác biệt dân tộc dần dần biến mất. Tiêu biểu cho xã hội cộng sản phát triển sẽ là một hình thức cộng đồng người mới [TNP. nhấn mạnh] trong lịch sử, rộng hơn so với dân tộc, hợp nhất toàn bộ loài người thành một gia đình [TNP. nhấn mạnh]" (4Tng).
Như vậy là trong viễn tưởng (chứ không phải viễn cảnh!) sẽ diễn ra sự đồng hoá dân tộc để đi đến sự đồng nhất dân tộc. Bấy giờ, không còn khái niệm Tổ quốc, quốc gia, dân tộc, mà chỉ còn là thế giới và loài người mà thôi!
Tuy nhiên, phải trở về với thực tế. Hãy nhớ lại rằng, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) chỉ trở thành người cộng sản khi Lê-nin đã bổ sung vào câu khẩu hiệu vốn đặc trưng cho chủ nghĩa Mác: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức [TNP. nhấn mạnh], đoàn kết lại!".

Về vô tôn giáo?

Điều này hẳn khỏi phải bàn, bởi không một ai không biết Mác và Ăng-ghen cũng như phong trào cách mạng vô sản mác-xít - lê-nin-nít đều chủ trương vô thần luận một cách công khai, minh bạch. “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (1847 – 1848)” có đoạn phê phán các giai cấp, thành phần phản động như sau:
"Những tư tưởng về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo chẳng qua chỉ nói lên thời kì thống trị của cạnh tranh tự do trong lĩnh vực tri thức mà thôi" (sđd., tr. 77).
"Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với chế độ sở hữu cổ truyền; không có gì đáng lấy làm lạ khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng cổ truyền [TNP. nhấn mạnh].
Nhưng hãy gác lại những lời giai cấp tư sản phản đối chủ nghĩa cộng sản"
(sđd., tr. 78).
“Từ điển triết học” của Liên Xô có đoạn viết về tôn giáo:
"Chỉ trong xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển thì tôn giáo mới có thể hoàn toàn biến mất và bị xoá bỏ khỏi đời sống con người. Nhưng việc tôn giáo mất đi không phải là một quá trình tự động; nó đòi hỏi phải kiên trì hoạt động giáo dục quần chúng, tuyên truyền rộng rãi những hiểu biết khoa học tự nhiên, xã hội và thế giới quan mác-xít" (5Tng).
Như thế, về bản chất, giai cấp vô sản đại công nghiệp mang trong mình tính ưu việt của phương thức sản xuất mới, hiện đại nhất, đồng thời cách mạng nhất:
"Những người cộng sản không tự hạ mình mà đi giấu giếm những ý kiến và dự định của mình. Họ công khai tuyến bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ hoàn toàn trật tự xã hội hiện có. Mặc cho các giai cấp thống trị run sợ khi nghĩ đến một cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa! Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ [TNP. nhấn mạnh]. Trong cuộc cách mạng ấy, họ giành được cả một thế giới cho mình" (sđd., tr. 101).
Nói cách khác, bởi thực trạng tam vô hoặc đa vô, giai cấp vô sản đại công nghiệp dưới chế độ tư bản bóc lột không có gì để mất, kể cả gia đình, dân tộc, Tổ quốc, tôn giáo, nhân phẩm, nên họ kiên quyết cách mạng đến cùng, vì nếu thất bại, thì chỉ mất xiềng xích mà thôi! Nói gọn hơn, được thì được cả thế giới, mất thì chỉ mất xiềng xích nô lệ!
Hạn chế của Mác và Ăng-ghen, như một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra, là tư duy theo kinh tế luận, chứ không phải theo Tổ quốc luận như Hồ Chí Minh. Phong trào cộng sản do Mác và Ăng-ghen lãnh đạo đấu tranh, trước hết và trên hết là vì quyền lợi giai cấp. Bản Quốc tế ca đã thể hiện điều đó:
"Chế độ xưa, ta mau phá sạch tan tành! Toàn nô lệ, hãy đứng lên đi! Nay mai, cuộc đời sẽ khác xưa, bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình [TNP. nhấn mạnh]!" .
Đối với người Việt Nam chúng ta, sẵn sàng hi sinh tất cả quyền lợi bản thân, cá nhân, gia đình, vì sự tồn vong của dân tộc và danh dự Tổ quốc, thì cũng như Bác Hồ, đó là một điều rất trăn trở. Nhưng Bác Hồ vĩ đại hơn nhiều người là ở chỗ, trong khi có người không thể chấp nhận “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (1847 – 1848)” và các tổ chức Quốc tế Cộng sản, thì Bác gia nhập Quốc tế Cộng sản đệ tam do Lê-nin sáng lập, và đồng thời đồng sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, là để đấu tranh nhằm hướng mục tiêu giải phóng dân tộc thành mục tiêu trọng tâm của tổ chức Quốc tế Cộng sản ấy và Đảng ấy. Hồ Chí Minh vẫn đặt quyền lợi, danh dự Tổ quốc, dân tộc lên trên quyền lợi, danh dự giai cấp công nhân. Tôi biết, có người đến hiện nay, vẫn còn đặt câu hỏi thao thức về vấn đề này: Phải chăng là thế?

Về biện pháp cách mạng?

Cũng trong chương II này, Mác và Ăng-ghen viết về biện pháp cách mạng: "bằng cách xâm phạm một cách chuyên chế vào quyền sở hữu và chế độ sản xuất tư sản" (sđd., tr. 78). Nói trắng ra là bằng bạo lực cách mạng, bằng chuyên chế vô sản (xin lưu ý: tôi dùng lại hai chữ "chuyên chế" trong bản dịch “Tuyên ngôn” – TNP.).
Về các biện pháp chuyên chế vô sản sẽ thực hiện ở các nước tiên tiến, xin trích nguyên văn:
"...
1.Tước đoạt sở hữu ruộng đất và bỏ địa tô vào quỹ chi tiêu của Nhà nước.
2.Đánh thuế theo mức độ luỹ tiến thật cao.
3.Xoá bỏ quyền thừa kế.
4.Tịch thu tài sản của tất cả những kẻ lưu vong và của tất cả những kẻ phiến loạn.
5.Tập trung tín dụng vào tay Nhà nước, bằng một ngân hàng quốc gia mà vốn liếng sẽ thuộc về Nhà nước, và ngân hàng này sẽ nắm độc quyền hoàn toàn.
6.Tập trung các phương tiện vận tải vào tay Nhà nước.
7.Tăng thêm số công xưởng quốc doanh và công cụ sản xuất; vỡ đất hoang và cải tạo đất trồng trọt, theo một kế hoạch chung.
8.Thực hành nghĩa vụ lao động đối với tất cả mọi người; tổ chức các đạo quân công nghiệp, đặc biệt là cho nông nghiệp.
9.Kết hợp lao động nông nghiệp với lao động công nghiệp; thi hành những biện pháp nhằm làm mất dần sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn 1*.
10.Giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả trẻ em. Xoá bỏ việc dùng trẻ em làm trong các công xưởng như hiện nay. Kết hợp giáo dục với sản xuất vật chất..."
(sđd., tr. 79 - 80).
“Tuyên ngôn” còn viết thêm về quyền lực chính trị:
"Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác" (sđd., tr. 80).
Sau khi dùng biện pháp "bạo lực tiêu diệt chế độ sản xuất cũ, thì đồng thời với việc tiêu diệt chế độ sản xuất ấy, nó cũng tiêu diệt luôn cả những điều kiện của sự đối kháng giai cấp, nó tiêu diệt các giai cấp nói chung và cũng do đấy, tiêu diệt cả sự thống trị của chính ngay giai cấp mình" (sđd., tr. 80).
Tôi đặt câu hỏi từ mệnh đề khẳng định này: "... và cũng do đấy, tiêu diệt cả sự thống trị của chính ngay giai cấp mình"? Như thế là thiên đường cộng sản chủ nghĩa sẽ không còn sự thống trị mang tính giai cấp, có nghĩa là trước đó đã không còn tồn tại nhà nước nào, chính đảng nào thuộc các giai cấp phi vô sản, đến lượt Nhà nước chuyên chính vô sản cũng không còn, không còn cả Đảng Cộng sản (đều hoàn tất vai trò, nhiệm vụ lịch sử và đều tuyên bố giải thể). Bởi lẽ, một khi xã hội đại đồng trên toàn thế giới (L'Internationale) hình thành, "trong đó, sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" (sđd., tr. 81), thì tất nhiên bấy giờ đã không còn giai cấp (vô giai cấp), do đó không còn đối kháng giai cấp, cho nên cũng không còn quyền lực chính trị theo định nghĩa trên. Kế tục, Nhà nước L'Internationale xuất hiện. Đó là một hình thức Nhà nước tự quản, tự điều hành của toàn nhân loại đại đồng, tất cả công dân thế giới đều giác ngộ về thiên đường cộng sản chủ nghĩa, và đang vừa xây dựng tiếp tục, vừa thụ hưởng thành quả cộng sản chủ nghĩa ấy, với một tầm dân trí tuyệt vời (tối thiểu mặt bằng dân trí toàn thế giới cũng là tiến sĩ chẳng hạn), và dứt khoát phải vươn tới được cái tâm trong sáng (phải đấu tranh để triệt tiêu tham-vọng-đế-quốc-đỏ hay còn gọi là dục-vọng-cộng-sản-đế-quốc-chủ-nghĩa, chủ-nghĩa-đế-quốc-trá-hình-thành-l'internationale).
Nhận xét về cuốn "Đường kách mệnh", nhà nghiên cứu Phan Ngọc viết:
"Công trình giáo dục của Nguyễn Ái Quốc không nói đến tam vô (vô Tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo), không nói đến nhị các (ai cũng được làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu (6Tng)), không trình bày chủ nghĩa cộng sản như một thiên đường, điều mà ta thấy sau này trong các sách huấn luyện. Nếu như có một người cách mạng không lãng mạn thì người đó là Hồ Chí Minh".

4.

Như vậy, không chỉ tam vô (vô Tổ quốc, vô gia đình và vô tôn giáo), Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (1847 – 1848) đã trình bày một cách công khai là rất nhiều vô. Phải kể thêm: vô sản (vô sở hữu tư liệu sản xuất); vô dân tộc (chứ không chỉ là vô Tổ quốc); vô giai cấp; vô quyền lực chính trị... Dĩ nhiên, có cái vô thực hiện ngay sau khi giành được chính quyền, có cái vô phải tiến hành từng bước một, thuộc về tương lai xa, rất xa, và có thể đó chỉ là những mục tiêu trong khoa học viễn tưởng hoặc, như có những kẻ tư sản, phản động đã nói: hoang tưởng. Nói là khoa học viễn tưởng cũng đã là vô phép, nhưng ai quả quyết được những điều mới chỉ là sản phẩm của khát vọng cao đẹp hãy còn thuộc lĩnh vực lí tưởng (mặc dù có cái phải bàn thêm), là sản phẩm của quá trình nghiên cứu khoa học, hoạt động thực tiễn nhưng không phải không ít nhiều xuất phát từ sách vở, tư duy tư biện, trí tưởng tượng vẽ vời; và trên thực tế, sau khi Liên Xô tan rã, sụp đổ, người ta có thể nói là chưa có một nước nào xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cả.
“Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (1847 – 1848)” rất có giá trị ở những trang tố cáo bản chất giai cấp tư sản trong quá trình tích luỹ tư bản, nhất là trong quá trình viễn chinh di thực (xâm lược, chiếm đóng, bóc lột, diệt chủng và di dân chính quốc đến cư trú tại thuộc địa).
Tuy nhiên, mọi người thuộc các thế hệ sau đều hiểu thời điểm xuất hiện Tuyên ngôn Đảng Cộng sản là ở trong bối cảnh ấy. Đó là bối cảnh trên đôi tay, mồm miệng tư sản – thực dân tàn khốc, ghê tởm đầy máu và bùn của công nhân (đa số xuất thân từ nông dân). Do đó, Tuyên ngôn không thể không chan chứa những yếu tố cực "tả", sục sôi lòng căm thù giai cấp bóc lột, vang rền tiếng thét đấu tranh cách mạng. Ngoài ra, không kể những hạn chế cụ thể – lịch sử, “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (1847 – 1848)” có những tư tưởng nhân văn chủ nghĩa rất tiến bộ và cao đẹp. Ngay những mục tiêu tạm gọi là thuộc về khoa học viễn tưởng cũng có tác dụng kích thích loài người hướng tới lí tưởng thiên đường cộng sản, theo cách nhìn của mỗi thế hệ phù hợp với thời đại mình.
Có một điều hết sức ngạc nhiên và thú vị, ấy là khi tôi đọc được một sự kiện đã được “Đại Nam thực lục chính biên” (7Tng) ghi chép lại: Ngay từ những năm năm mươi của thế kỉ XIX, chính xác là 1857 (tháng mười một âm lịch, năm Tự Đức thứ mười), tại hai làng Tiên Lễ, Lệ Sơn, huyện Minh Chính, thuộc tỉnh Quảng Bình, có hai người học trò, kẻ sĩ, đã phát hiện ra chủ nghĩa xã hội bình quân nông dân để tâu lên vua Tự Đức nhằm chống lại "tả đạo" Thiên Chúa giáo, nhưng không được vua và triều đình thấu hiểu, thậm chí còn bị phạt trượng và tội đồ. Đó là Lương Trợ Lý và Hoàng Hữu Phu.
Phải chăng, không nghi ngờ gì nữa, đó là lần đầu tiên người Việt nước Đại Nam đã phát hiện ra sự kết hợp giữa biện pháp cải cách kinh tế về ruộng đất theo hướng xã hội chủ nghĩa (tuy còn bình quân chủ nghĩa kiểu nông dân) và ý thức độc lập dân tộc cũng như phong trào giải phóng dân tộc, chống ngoại xâm (cho dù đến một năm sau, 1858, thực dân Pháp mới chính thức xâm lược)?
Chủ nghĩa xã hội Phương Tây trước Mác và chủ nghĩa Mác – Ăng-ghen, liệu có đến nước ta (Đại Nam, triều Tự Đức) từ những năm xa xưa ấy hay chỉ là trường hợp "tư tưởng lớn gặp nhau" mà người thầy chính là thực trạng xã hội, chứ không phải sách vở? Tôi tin chắc chắn chỉ là tư tưởng riêng của Lương Trợ Lý và Hoàng Hữu Phu.
Đã đúng 146 năm (từ 1857 đến nay, non một thế kỉ rưỡi) trôi qua...
Về tác động của “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (1847 – 1848)”, ở đầu thế kỉ XX, nhất là sau Cách mạng Tháng mười Nga 1917, nói chung là vô cùng to lớn. Cho đến thời đoạn thoái trào cách mạng vô sản trên thế giới hiện nay (cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI), ít ra Tuyên ngôn cũng còn có tác dụng khơi dậy, thúc đẩy phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân tại các nước tư bản chủ nghĩa, buộc các nước tư bản phải tự điều chỉnh.
Dẫu sao, tôi cũng chỉ học tập theo Bác Hồ: "yêu Tổ quốc, yêu đồng bào"; "không có gì quý hơn độc lập, tự do [bao hàm tất cả các quyền dân chủ]"; "tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành"... Chủ nghĩa xã hội, về mặt kinh tế, cũng phải hội đủ năm thành phần kinh tế, như tổng bí thư Lê Duẩn đã vạch ra.
Trong những tác phẩm đã xuất bản, tôi đã thể hiện rõ tư tưởng của mình về những vấn đề này, và cả vấn đề bản sắc văn hoá dân tộc... (8Tng).
Tôi là một người sáng tác văn chương, không hề có một chút tham vọng chính trị, nhưng không thể không nghiên cứu, suy tư về sử học, chính trị, triết học cách mạng... Tôi tin rằng chúng ta vẫn còn thao thức tìm cho ra một mô hình, cơ chế xã hội và nhà nước xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc, thật sự tự do - nhân quyền, thật sự dân chủ - dân quyền. Xin đừng bó hẹp nhân quyền vào độc nhất một từ: tôn giáo. Việc đó chỉ phù hợp với người khác, vốn theo các tôn giáo có một lịch sử yêu nước, chống ngoại xâm, như Phật giáo chẳng hạn. Không! Không phải cứ nói đến nhân quyền là nói đến tôn giáo, nhất là loại tôn giáo phản quốc. Không có một quyền nào gọi là quyền phản quốc trong nhân quyền cả. Ngược lại, quyền tự do không tôn giáo, quyền tự do yêu nước, dựng nước, giữ nước (gồm cả quyền giữ gìn, phát huy, cách tân bản sắc văn hoá dân tộc) phải được tôn trọng và bảo vệ (9Tng). Nhân quyền gồm tất cả các quyền tự do cơ bản và chính đáng của con người: quyền được tự do học tập, nghiên cứu, tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tư tưởng, tự do hội họp và lập hội, và hàng chục quyền tự do cơ bản, chính đáng, rất cụ thể khác của con người đã được ghi vào Hiến chương Liên hiệp quốc cũng như Hiến pháp xã hội chủ nghĩa nước ta.
Chủ nghĩa xã hội với những cải cách cần thiết, không thể không có, về mô hình và cơ chế, trong thao thức của nhiều người, như vừa đề cập, là khát vọng có thật. Tuy nhiên, xin phải hết sức cẩn trọng, không thể lãng mạn về kinh tế, càng không thể phiêu lưu thí nghiệm xã hội trên quy mô toàn Đất nước như mấy thập niên trước, cho dẫu nước ta, dân tộc Việt Nam ta vốn lấy Tổ quốc luận làm trọng, và chủ nghĩa yêu nước thương nòi đã nghìn đời là truyền thống, sức mạnh chống ngoại xâm và đề kháng đối với mọi mưu toan đồng hoá dân tộc, là sức sống, sức bật của dân tộc Việt Nam ta (gồm nhiều nhân tộc) trên mọi lĩnh vực, và đặc biệt cần nhấn mạnh ở đây, đó là khả năng Việt hoá tất cả mọi giáo thuyết ngoại nhập, sau khi đã đãi lọc, loại trừ các thành tố độc hại trong các giáo thuyết ấy, kể cả chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
Tuy phải cẩn trọng trong Đổi mới, nhưng cũng không thể để muộn hơn được nữa, nhất là về cơ chế tự do, dân chủ (nhân quyền và dân quyền)!

TRẦN XUÂN AN


Xin lưu ý: BÀI THỨ NHẤT và BÀI THỨ HAI:
http://tranxuanantieuluan.blogspot.com/


Cước chú của bài tiểu luận “Đọc lại "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản" (1847 - 1848) của Mác và Ăng-ghen (K. Marx & F. Engels)” (“Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”, viết tắt là Tng):

42 Ở đây có một chú thích cuối sách, sđd., của Nxb. Sự Thật, Hà Nội, mang kí hiệu 42. Để ngắn gọn bớt, tôi mạn phép Nxb. không trích lại nguyên văn. Tôi chỉ xin nói thêm: Khác với mọi cuộc thập tự chinh ở các thế kỉ XI - XIII tại Trung Đông, những đoàn quân xâm lược giương cao lá cờ thập tự Thiên Chúa, ở giai đoạn thuộc các thế kỉ XVI - XIX, tại các nước Á, Phi, Mỹ la tinh và riêng ở Việt Nam, thực dân viễn chinh không cần ngụy trang thành giáo sĩ (tuy ít nhiều cũng có), giáo sĩ không cần ngụy trang thành thực dân viễn chinh, mà trắng trợn hơn nhiều. Nét khác hẳn nữa, ấy là giáo sĩ cùng thương nhân đi truyền đạo, buôn bán để thăm dò, tạo nội phản trước.

(1Tng) Từ điển triết học, bản tiếng Việt, Nxb. Tiến Bộ, Mát-x-cơ-va (1975), liên kết với Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1986, tr. 205.

1* Chú thích trong bản sách, sđd., Nxb. Sự Thật, Hà Nội, mang kí hiệu 1*: Bản tiếng Anh năm 1888 dịch: "tự xây dựng thành giai cấp thống trị trong dân tộc".

46 Chú thích của Nxb. Sự Thật, Hà Nội, mang kí hiệu 46: Luận điểm này đúng trong thời đại Mác và Ăng-ghen sống. Trong điều kiện lịch sử mới, trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lê-nin đã tìm ra quy luật phát triển không đều của các nước tư bản; và, xuất phát từ luận điểm này, đã chứng minh khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản thoạt đầu ở một số nước hoặc thậm chí ở riêng một nước. Lần đầu tiên điều đó đã được Lê-nin trình bày trong bài "Bàn về khẩu hiệu liên bang châu Âu". (Xem V.I. Lê-nin, Toàn tập, Nhà Xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tập 21, tr. 399) - (BT.). Tr. 76 (của sách đang được trích dẫn - TNP. ct.).

(2Tng) Từ điển triết học, sđd., tr. 712 - 713.

(3Tng) Từ điển triết học, sđd., tr. 659 - 660.

(4Tng) Từ điển triết học, sđd., tr. 121 - 122.

(5Tng) Từ điển triết học, sđd., tr. 588.

1* Có một chú thích trong bản sđd., mang kí hiệu 1*, nhưng không có gì quan trọng, có lẽ không cần trích ra ở đây.

(6Tng) Làm hết năng lực, hưởng theo nhu cầu (các tận sở năng, các thụ sở nhu). Theo đó, mọi người đều ra sức làm việc cho hết năng lực của mình một cách hoàn toàn tự giác, và tất nhiên mọi người đều được hưởng thụ theo nhu cầu tối đa của bản thân cũng một cách hoàn toàn tự giác. Đây là một điều quá lí tưởng, nên trong cuốn "Đường kách mệnh", Nguyễn Ái Quốc không nói đến. Về sau, trong tinh thần "không sợ thiếu thốn, chỉ sợ [phân phối] không công bằng", còn có câu: Làm theo lao động, hưởng theo phân phối (các tuỳ sở nghệ [?], các thụ tuỳ phân [?]), có nghĩa là làm theo nghiệp vụ được đào tạo, và hưởng thụ theo sự phân phối (trong thời chiến tranh, thường là kham khổ, không đúng sở thích), chứ chưa phải được hưởng theo nhu cầu. Câu thứ nhất áp dụng vào giai đoạn cộng sản chủ nghĩa (xã hội đã phát triển cao). Câu thứ hai áp dụng vào giai đoạn xã hội chủ nghĩa (xã hội còn ở mức phát triển thấp).

(7Tng) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên, tập 28, bản dịch Tổ Phiên dịch Viện Sử học, Nxb. Khoa học xã hội, 1973, tr. 381 - 382.

(8Tng) Xem thêm: Trần Xuân An, Sen đỏ, bài thơ hoà bình & Ngôi trường tháng giêng, Nhà Xuất bản Thanh Niên, 2003 (cùng xuất bản một lượt). Nhiều vấn đề khác, cùng vấn đề chủ nghĩa xã hội với năm thành phần kinh tế và vấn đề bản sắc văn hoá dân tộc đã được đề cập tập trung nhất trong hai tiểu thuyết này.
Hai cuốn tiểu thuyết ấy, tác giả đã viết xong vào hai năm 1998 và 1999.
Hai bài "Một ý nghĩ nhỏ về một truyền thống lớn và một nhân vật lịch sử lớn", "Đọc lại Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (1847 - 1848) của Mác (Karl Marx) và Ăng-ghen (F. Engels)" , tác giả tiểu thuyết (Trần Xuân An) mới viết trong hai tháng 11 & 12.2003 (10 & 11. Quý mùi HB.3). Tuy vậy, lần sửa chữa, bổ sung cuốn Mùa hè bên sông này, tác giả vẫn đưa vào, để giải quyết trọn vẹn hơn những vấn đề mà Mùa hè bên sông đặt ra, mặc dù thời điểm diễn biến câu chuyện trong
”Mùa hè bên sông”
là năm 1996. TXA.

(9Tng) Nguyên văn về quyền giữ gìn, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc:
"Không được xâm phạm thuần phong mĩ tục" (khi thực hiện các quyền tự do, dân chủ). Quyền tự do yêu nước, giữ nước, dựng nước là một quyền đương nhiên, chỉ có ý nghĩa và giá trị khi được thể hiện bằng hành động cụ thể thông qua việc thực hiện các nhân quyền tự do, các dân quyền dân chủ cơ bản và chính đáng khác.

TXA.
____________________________________


BÀI THỨ TƯ

Bài đã đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
số tháng 6-2005
trong chương 13 [tệp 13a] tiểu thuyết MUÀ HÈ BÊN SÔNG
posted: 14.6.2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm

TRẦN XUÂN AN
(Trần Nguyễn Phan)

MỘT Ý NGHĨ NHỎ
VỀ MỘT TRUYỀN THỐNG LỚN
VÀ MÀT NHÂN VẬT LỊCH SỬ LỚN


Kính gửi dòng sông Bến Hải
Kính gửi ông Bùi Hiền
và thân tặng bạn Bùi Hành, [hai nhân vật tiểu thuyết của tôi]
với tất cả lòng quý mến


Bài viết này vốn là một ghi chú, do đó tôi không có ý định làm văn chương ở thể tài rất thông tấn này, và cũng bởi vậy, tôi thấy nên viết thẳng vào vấn đề ngay từ dòng đầu. Tôi cũng xin người đọc hãy rộng lòng thứ lỗi cho tôi, về cách diễn đạt hơi chối tai, cay mắt, buốt tim.
Tôi thật vô lễ khi dám bạo gan bàn đến một hạn chế "tả" khuynh của Bác Hồ: không có ban thờ gia tiên (hoặc thường gọi là bàn thờ gia tiên, thờ cha mẹ, ông bà, cố ông, cố bà và tổ tiên, cội nguồn dân tộc) trong nhà sàn (tại Hà Nội) của Bác. Phải chăng, đó là một hạn chế thuộc loại cụ thể - lịch sử trước sức ép của phong trào cộng sản quốc tế thời bấy giờ? Dẫu sao, tôi cũng thử phê phán hạn chế này, nhưng không phải vì vậy mà phủ nhận sạch trơn về những cống hiến của Bác Hồ cho sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp, phát xít Nhật, đế quốc Mỹ và chống "tả đạo", của dân tộc Việt Nam ta.
Quan niệm của tôi về phong tục, đạo lí dân tộc ở khía cạnh này (bàn thờ gia tiên) đã được nhiều lần nhấn mạnh ở các cuốn sách của tôi, đã xuất bản. Tuy nhiên, ở đây, xin nhấn mạnh thêm một phản đề: Thiên Chúa giáo, Tin Lành giáo thực chất cùng thuộc một loại tôn giáo chủ trương độc tài, độc chiếm đời sống tâm linh, linh hồn của tín đồ, nên ở Phương Tây (Âu Mỹ) không có mĩ tục thờ cúng ông bà (bàn thờ gia tiên). Chúng ta thấy rõ quan niệm "tả đạo" ấy là rất quái dị, cụ thể là vong bản, khi chỉ thờ Chúa Giê-su [và cha mẹ của Giê-su là Giu-se, Ma-ri-a], vốn là [các] nhân vật lịch sử của nước Do Thái cổ đại! Nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đã kịch liệt phê phán: "Thà đui mà giữ đạo nhà, còn hơn có mắt ông cha không thờ".
Tôi ý thức rất rõ việc phê phán anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh ở khía cạnh này, và khẳng định đó là sự phê phán được đặt trên đạo lí - bản sắc văn hoá - lịch sử nghìn đời của dân tộc ta, vì truyền thống văn hoá dân tộc, vì tương lai của văn hoá dân tộc.
Xin mở rộng vấn đề:
Học giả Phan Ngọc, một cách rất cẩn trọng và dè dặt, ông đã đề cập đến khía cạnh tam vô (vô Tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo) của chủ nghĩa Mác (Karl Marx, 1818 - 1883 (agt)): "... Nguyễn Ái Quốc không nói đến tam vô (vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo)...". Ở đoạn kết bài nghiên cứu, Phan Ngọc còn viết: "Tôi biết có người còn hỏi tôi về những sai lầm, về cải cách ruộng đất, về nhiều chuyện khác nữa. Tôi chỉ xin các bạn ấy hiểu cho những khó khăn của một người cộng sản trong hoàn cảnh tự mình đi con đường riêng, có điểm không ăn khớp với những nguyên lí của Quốc tế Cộng sản, tự mình phải chèo chống con thuyền cách mạng giữa bao khó khăn, hiểu lầm, tự mình phải nói năng hành động sao cho có lợi cho cách mạng và dân tộc. Con người ở địa vị cao thì sự ràng buộc càng lớn. Những ràng buộc mà một cá nhân nhỏ bé như chúng ta phải chịu thực không có nghĩa gì so với những ràng buộc mà Hồ Chí Minh phải chịu" (bgt).
"Sự ràng buộc" Phan Ngọc đã viết, nói cách khác, đó chính là sức ép của Quốc tế Cộng sản, một tổ chức mà những người sáng lập, lãnh đạo là người châu Âu (kể cả người có gốc Do Thái như Mác; Mác mang huyết thống của một dân tộc vốn rơi vào thảm kịch vong quốc và sau hai nghìn năm, đã thật sự vô tổ quốc, đã Âu hoá 100%). Phan Ngọc cũng đã nhấn mạnh một cách cẩn trọng, dè dặt, trong bài viết trên: Quốc tế Cộng sản không thể hiểu được một người theo Tổ quốc luận, vốn là bản sắc cơ bản nhất trong truyền thống dân tộc Việt Nam ta, như Hồ Chí Minh.
Ở đây, tôi chỉ đề cập đến đạo lí tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên, cội nguồn dân tộc, anh hùng, danh nhân dân tộc của người Việt Nam chúng ta. Đó là một hình thái vừa giao thoa, vừa tập trung chủ nghĩa yêu nước (Tổ quốc luận), tình cảm thương nhà (gia đình) và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nói chung (có thể gọi là một dạng thức gần như tôn giáo truyền thống, phổ biến đến mức tuyệt đại đa số trong cộng đồng dân tộc, mặc dù không có tu sĩ). Tất nhiên, nếu có sự mâu thuẫn tư tưởng giữa ba lĩnh vực yêu nước, thương nhà, thờ cúng tổ tiên nói chung, thì dứt khoát và luôn luôn lấy chủ nghĩa yêu nước làm trọng. Có điều, chỉ có thể có mâu thuẫn cục bộ (một phân số nhỏ trong một tổng thực thể [lĩnh vực], như tổng thực thể gia đình chẳng hạn) chứ không bao giờ có mâu thuẫn toàn bộ giữa ba tổng thực thể trên. Một đại gia đình thuộc loại bi kịch, nhiều lắm là có một, hai người thật sự cam tâm phản quốc hoặc đạo tặc, tham ô, chứ không lẽ tất cả đại gia đình đó đều phản quốc hoặc đạo tặc, tham ô! Vì thế, cho nên, một khi có mâu thuẫn giữa ba thực thể [ba lĩnh vực], mặc dù vẫn dứt khoát lấy chủ nghĩa yêu nước làm trọng, nhưng vẫn duy trì hai lĩnh vực kia để giữ vững truyền thống chung. Đó là cách ứng xử hài hoà, giữa quyền biến và kinh thường, tức là giữa việc phải ứng xử đối với trường hợp bất thường hằng (phi truyền thống, phi đạo lí cá biệt, tạm thời) và việc duy trì truyền thống thường hằng (hợp truyền thống, hợp đạo lí phổ biến, muôn đời). Nói một cách cụ thể, thậm chí nếu cha ruột phản quốc, hại dân, đứa con yêu nước phải giết cha để cứu nước, cứu dân, nhưng rồi cũng phải thờ cúng, kị giỗ cha cho phải đạo và để giữ vững truyền thống thờ cúng tổ tiên nói chung. Cố nhiên việc giết cha này phải ở trong phạm vi đạo lí, đại nghĩa, pháp luật, cho dù là thời chiến, chứ không phải là hành vi manh động, côn đồ.

Xin mở một ngoặc đơn:
Về cách ứng xử trong trường hợp có mâu thuẫn bi kịch tương tự như trên, như giữa ba cấp độ thực thể: Đất nước, vua, nhân dân, chính Mạnh Tử, một thánh hiền của Nho giáo, một học thuyết vốn đặt nặng vấn đề trung quân, đã viết: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh""(dân là quý, thứ đến là Đất nước, vua chỉ đáng xem nhẹ). Nhân đây, tôi chỉ nhắc lướt qua về một giải pháp đê hèn, phản quốc trong lịch sử nước ta: "cắt đất cầu hoà", thực chất là cắt một phần Đất nước để mưu cầu sự tồn tại vương triều chỉ vì quyền lợi cá nhân ích kỉ của Hồ Quý Ly và Mạc Đăng Dung. Thông thường, nếu không thể tránh được bi kịch lịch sử như thế, giải pháp khôn ngoan phải là: Đất phải gắn liền với dân, bởi vì còn dân ta ở trên đất phải cắt cho giặc, thì vẫn còn có cơ hội lấy lại cả đất lẫn dân. Giải pháp khôn ngoan trong trường hợp bất đắc dĩ là thế, chứ không thể cắt đất cho giặc để giặc đem dân của chúng đến cư trú như Hồ Quý Ly, Mạc Đăng Dung đã làm! Giải pháp bất đắc dĩ, mặc dù dựa trên quan điểm quyền biến – kinh thường, nhưng cũng cần phải cân nhắc sâu xa. Tất nhiên dân tộc ta dứt khoát không bao giờ để bi kịch lịch sử đau thương tương tự lặp lại.
Như vậy, từ thuở xa xưa, mâu thuẫn giữa nhân dân, Tổ quốc với lãnh tụ, nếu có, thì đã được giải quyết.
Một luận đề khác: "Quân sư phụ, tam cương dả; thuyền đầy bị ngã, con cứu ai?". Vua, thầy giáo, cha ruột vốn là tam cương, ba giềng mối lớn theo đạo lí nhà nho. Ba vị cùng đi trên một chuyến ghe; ghe gặp sóng to, ghe lật, cả ba đều bị ngã; đứa con ruột của người cha, cũng là thần dân của nhà vua, đồng thời là học trò của nhà giáo, anh ấy cùng đi trên ghe, nhưng chỉ có khả năng cứu được một người; vậy đứa con (thần dân, học trò) phải cứu ai? Câu trả lời cũng phải dựa vào quyền biến, kinh thường.
Giả thiết phải có thêm dữ kiện để tổng hợp:
1. Cả ba vị đều tốt. Ở trường hợp này phải xét đến phạm vi chức trách, tác dụng xã hội của mỗi vị (ai quan trọng hơn ai đối với Đất nước, xã hội), đồng thời phải xét đến sự thể là, vua có thể thay thế hay không thể thay thế, thầy có thể thay thế hay không thể thay thế, và cha ruột bao giờ cũng chỉ duy nhất một người...
2. Vua là minh quân hay bạo chúa? Thầy giáo là thầy tốt, luôn thể hiện thiên chức, sứ mệnh giáo dục cao cả hay chỉ bán chữ? Người cha là cha hiền hay phản quốc, hại dân?...
Câu trả lời không đơn giản, nhưng cũng đã rõ về sự chọn lựa, nhất là trong trường hợp có mâu thuẫn bi kịch, đòi hỏi phải giải quyết mâu thuẫn trên nền tảng đạo lí phổ quát. Trong những câu trả lời đúng, có một câu là phải để cha ruột chết chìm, thầy giáo chết chìm để cứu vua, vì trong trường hợp cụ thể nào đó, cứu vua mới có thể cứu nước. Tất nhiên rồi đứa con ruột cũng là người học trò biết vì đại nghĩa ấy vẫn thờ cúng, kị giỗ cha và có thể kị giỗ cả thầy giáo.
Theo sự phân tích, đánh giá của công luận sáng suốt xưa nay, hành vi chọn lựa ấy là hoàn toàn không một chút ngu trung, cuồng trung do bị nhồi sọ, mặc dù không một ai muốn bi kịch đau thương như thế xảy ra!
Dẫu sao bi kịch này vẫn còn "nhẹ nhàng" hơn bi kịch giết cha để cứu nước, vốn rất "dữ dội", đã viết ở đoạn trên. Nhưng ở trường hợp nào cũng phải giữ vững mĩ tục thờ cúng, kị giỗ.
Ngoặc đơn xin được đóng lại với sự khẳng quyết như thế.

Trở lại vấn đề, xin nói rõ thêm về phong tục thờ cúng tổ tiên nói chung: Tiểu sử của một cá nhân, lịch sử một dòng họ, một làng thôn cũng như lịch sử một dân tộc, lịch sử cả nhân loại, đều có thăng, có trầm, có người tích cực, có kẻ tiêu cực, nhưng chúng ta đều có thể rút ra từ những thực thể cá nhân - cộng đồng quá khứ với những tiểu sử - lịch sử ấy những bài học kinh nghiệm, trong đó ngoài biết bao kinh nghiệm rất nên tự hào, còn có kinh nghiệm đau thương, thậm chí [phải dùng một từ bất nhã] là ô nhục; tất nhiên tự hào là cơ bản.
Không vì một lí do gì để bài trừ bàn thờ gia tiên (c.1gt).
Chủ nghĩa tam vô mác-xít - lê-nin-nít tất nhiên phải ép buộc tư tưởng Hồ Chí Minh phải tuân thủ "giáo điều" tam vô, trong đó cố nhiên bài trừ cả bàn thờ gia tiên, một bản sắc văn hoá - lịch sử rất cơ bản của dân tộc! Tuy nhiên, phải thấy rõ ở Hồ Chí Minh như Phan Ngọc gần đây đã viết: Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh "tự mình đi con đường riêng, có điểm không ăn khớp với những nguyên lí của Quốc tế Cộng sản". Trước sau Hồ Chí Minh vẫn là một người kiên trì chủ trương ""yêu Tổ quốc, yêu đồng bào", "không có gì quý hơn độc lập, tự do"...
Sức ép của một tổ chức Quốc tế đề xướng chủ nghĩa tam vô mác-xít - lê-nin-nít không phải là điều suy diễn của những thế hệ sau này. Đó là sự thật lịch sử. Trong một bài viết, Đặng Văn Hồ, giảng viên khoa sử Đại học Sư phạm Huế, đã trích dẫn nguyên văn những lời phê phán của Quốc tế Cộng sản về Nguyễn Ái Quốc: Người "đã phạm nhiều sai lầm chính trị rất nguy hiểm", "hữu khuynh", có biểu hiện thuộc "hệ tư tưởng quốc gia pha trộn tư tưởng cải lương chủ nghĩa, duy tâm chủ nghĩa", "cơ hội chủ nghĩa" (*). Và Nguyễn Ái Quốc không được tiếp tục hoạt động cách mạng trong một thời gian, đến nỗi trong một bức thư gửi một vị lãnh đạo Quốc tế Cộng sản, vào năm 1938, Nguyễn Ái Quốc viết: "Đồng chí thân mến, ... Điều tôi muốn yêu cầu đồng chí, đó là đừng để tôi ở quá lâu không hoạt động, như là ở bên lề và ở ngoài Đảng" (**). Sự thể ấy đã xảy ra bởi một lẽ giản dị: con đường dẫn Bác Hồ đến với Quốc tế Cộng sản và chủ nghĩa xã hội, khởi đầu là từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Tiếp xúc với chủ nghĩa Mác đã lâu, nhưng con đường ấy chỉ hiện rõ trong tâm trí Nguyễn Ái Quốc, khi được đọc luận cương về thuộc địa của Lê-nin. Thật sự, Bác Hồ chỉ tranh thủ sự ủng hộ, viện trợ của tổ chức Quốc tế này, và sau đó tranh thủ các nước xã hội chủ nghĩa mà đứng đầu là Liên Xô với mục đích lớn nhất là giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân, phát xít, đế quốc chủ nghĩa. Đó là về tư tưởng chính trị. Còn về thế giới quan của Hồ Chí Minh, duy tâm hay duy vật, tôi mạn phép không bàn ở đây (c.2gt). Đạo lí tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, cội nguồn, anh hùng, danh nhân dân tộc là một mĩ tục rất Việt Nam, với tính chất dung hợp vốn có, không tính đến khía cạnh duy tâm hay duy vật. Nhưng với nhãn quan của các vị lãnh đạo Quốc tế Cộng sản, hầu hết là người châu Âu, ấu trĩ "tả" khuynh, quá sách vở, "hoang tưởng", "nóng vội" ngay cả trong việc tìm hiểu thực tiễn, theo họ, hẳn mĩ tục ấy là một biểu hiện chưa thực sự tam vô chủ nghĩa, thậm chí là mê tín! Có nhiều điều cũng không cần bàn thêm ở đây. Tôi chỉ nói riêng về khía cạnh mê tín. Một phong tục hình thành và phát triển từ hàng ngàn năm trước, làm thế nào không còn dấu vết mê tín! Họ không hiểu thế nào là cách tân truyền thống văn hoá? Xoá sạch nghi thức sẽ dẫn đến sự trống rỗng nội dung! Thái độ quá khích, thói phủ định sạch trơn quá khứ xuất phát từ nhiệt huyết đồng thời từ nhận thức ấu trĩ. Phải chăng là thế?
Dẫu vậy, nhưng Hồ Chí Minh cũng phải chịu sức ép tam vô chủ nghĩa từ Quốc tế Cộng sản, như đã trình bày, và đồng thời Hồ Chí Minh đã tìm cách tác động ngược lại. Nói cách khác, Hồ Chí Minh gia nhập Quốc tế Cộng sản, đồng sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, là để đấu tranh làm thay đổi quan điểm của các tổ chức ấy về vấn đề đặt nhiệm vụ trọng tâm vào phong trào giải phóng dân tộc, chứ không chỉ thiên về nhiệm vụ cách mạng ở các "chính quốc" (các nước xâm chiếm thuộc địa). Đó lại là vấn đề lớn khác, xin được gác qua.
Tuy nhiên, về vấn đề một truyền thống lớn của dân tộc ta ở bài viết này, cũng cần lưu ý, việc thiếu sót bàn thờ gia tiên ở nhà sàn của Bác Hồ đã được nhân dân, cán bộ, chiến sĩ cách mạng Nam bộ bổ khuyết bằng cách hết lòng lo việc kị giỗ, gìn giữ khu lăng mộ của thân sinh Người, tại Đồng Tháp (dgt), mặc dù ai cũng biết việc đặt bàn thờ gia tiên tại nhà và việc kị giỗ, bảo tồn, trùng tu lăng mộ, lại là các việc khác nhau.
Ở đoạn trên của bài này, tôi đã viết: Tôi ý thức rất rõ việc phê phán anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh ở khía cạnh [thiếu sót bàn thờ gia tiên] này, và khẳng định đó là sự phê phán được đặt trên đạo lí – bản sắc văn hoá – lịch sử nghìn đời của dân tộc ta, vì truyền thống dân tộc, vì tương lai của dân tộc. Tôi thấy cần viết thêm: Phải thấy rõ nguyên nhân hạn chế cụ thể – lịch sử của Bác Hồ để rút kinh nghiệm lịch sử, và phải cùng nhau khẳng định rằng, không thể nhân nhượng vô nguyên tắc bất kì sức ép nào, mà đạo lí tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, cội nguồn, anh hùng, danh nhân dân tộc là một nguyên tắc lớn. Đó là sức mạnh tâm linh văn hoá – lịch sử (đã luôn luôn, mãi mãi trở thành sức mạnh có tính vật chất) để giữ nước và dựng nước.
Tôi thành thật lo ngại rằng, cách viết phê phán mặt hạn chế của anh hùng dân tộc quá "dè dặt" như học giả Phan Ngọc sẽ khiến nhiều người bắt chước mà không cởi trói, lại càng tự trói buộc chính mình, và, tệ hại hơn, vì nhiều người bắt chước ấy có quyền lực trong tay, nên càng ra sức trói người khác. Xin thưa thêm: Giảng dạy, học tập lịch sử với ý thức noi gương để phát huy những ưu điểm, đồng thời phê phán để tránh những khuyết điểm của tiền bối là mục đích yêu cầu về giáo dục, giáo dưỡng và tiếp thụ mà nhà trường, thầy cô giáo và học sinh nào cũng không thể không biết, có điều suốt một thời gian dài lắm người vì sợ hãi mà chỉ tô hồng một chiều, thậm chí biến khuyết điểm thành ưu điểm, một cách rất tai hại...
Tôi thấy cần phải khẳng định lại một lần nữa, việc phê phán hạn chế cụ thể – lịch sử của anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh là sự phê phán được đặt trên đạo lí – bản sắc văn hoá – lịch sử nghìn đời của dân tộc ta, vì truyền thống văn hoá dân tộc, vì tương lai của văn hoá dân tộc. Tôi đã đặt dân tộc (Việt Nam) ở tầm cao hơn cá nhân lãnh tụ (Hồ Chí Minh). Điều đó hoàn toàn hợp đạo lí vĩnh hằng của dân tộc và nhân loại, cũng như hoàn toàn phù hợp với công lí của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài học chính trị học, triết học sơ đẳng (về chủ nghĩa duy vật lịch sử) cũng đã đề cập đến vai trò cá nhân lãnh tụ và mối quan hệ giữa cá nhân lãnh tụ với dân tộc, chống tệ sùng bái mù quáng cá nhân lãnh tụ, một cách minh bạch, tuy ở dạng lí luận khái quát, không vận dụng cụ thể vào việc nhận định về vị lãnh tụ nào.
Việc phê phán anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh ở mặt hạn chế cụ thể – lịch sử (thiếu sót về bàn thờ gia tiên truyền thống) như đã nêu trên, đó là bởi yêu cầu sử học khách quan đặt ra, ngay trong việc viết tiểu thuyết, và để góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng bền vững, thắm thiết. Nói cách khác, ngoài việc chỉ ra và phê phán tả đạo Thiên Chúa giáo, thực dân, phát xít, đế quốc cùng bè lũ phản quốc đích thực trong 117 năm (1858 – 1975) và tập đoàn bành trướng, bá quyền Trung Quốc (trước 1975 (egt) và từ đó đến 1989), tính chính xác sử học trong văn học yêu cầu phải lí giải thêm một trong những tác nhân ý thức hệ về sự phân hoá, phân liệt dân tộc, gây thêm "nội chiến cách mạng" với quá nhiều xương máu trong cuộc chiến tranh chống ngoại xâm dài đằng đẵng 1930 – 1975, đặc biệt là giai đoạn chia cắt Đất nước 1954 – 1975, nhằm hàn gắn vết thương lịch sử là dòng sông Bến Hải ở chiều sâu tâm thức của dân tộc trên hai miền Nam – Bắc (I.129).
Quả thật, anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh có những hạn chế cụ thể – lịch sử, cần thiết phải chỉ ra nguyên nhân (sức ép tam vô chủ nghĩa của Quốc tế Cộng sản) và cần phải phê phán vì những mục đích yêu cầu trên (lí giải lịch sử, rút kinh nghiệm lịch sử, đặc biệt là để đoàn kết dân tộc, và nhất là để bảo vệ truyền thống văn hoá nghìn đời của dân tộc). Cho dẫu đáng tiếc như thế, Hồ Chí Minh vẫn là nhân vật lịch sử vĩ đại của dân tộc và của nhân loại trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, phát xít Nhật, đế quốc Mỹ và chống "tả đạo" Thiên Chúa giáo...

TRẦN XUÂN AN

Cước chú bài “Một ý nhỏ về một truyền thống lớn và một nhân vật lịch sử lớn” (bàn thờ gia tiên, viết tắt là gt):

(agt) Đối chiếu niên đại, thấy rõ Các Mác (Karl Marx, 1818 - 1883) không thể không biết quá trình thực dân Pháp, Tây Ban Nha và "tả đạo" xâm lược nước ta. Hai nước thực dân Anh, Đức là hai nơi Các Mác sinh trưởng, cư trú, hoạt động hầu hết cuộc đời. Thực dân Anh, Đức ít nhiều cũng trực tiếp dính líu vào quá trình xâm lược ấy. Đó là giai đoạn dân tộc ta cùng triều Nguyễn phải kháng chiến, đương đầu, bằng sách lược chiến - hoà - thủ - chiến (1858 - 1885)! Cho đến nay, tôi chưa được đọc một dòng chữ nào của Mác bênh vực, ủng hộ nước ta thuở đó!

(bgt) Trích nguyên văn: Phan Ngọc, Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb. Văn hoá - Thông tin, 1998, tr. 465 và tr. 477.

(c.1gt) Xem thêm: Trần Xuân An, Sen đỏ, bài thơ hoà bình, tiểu thuyết, Nxb. Thanh Niên, 2003.

(*) Chú thích viết tay của Đặng Văn Hồ cuối một bài viết (đánh máy chữ) của ông, bản pho-to-co-py: Dẫn theo Lê Mậu Hãn, “Hồ Chí Minh với ngọn cờ độc lập, dân tộc trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng”; dẫn lại trong “Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người chiến sĩ kiên cường trong phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế”, Nxb. Thông tin - lí luận, Hà Nội, 1990, tr. 355.

(**) Chú thích của Đặng Văn Hồ trong bài viết trên: Dẫn theo GS. Đinh Xuân Lâm, Một bức thư của Nguyễn Ái Quốc năm 1938, Tạp chí Lịch sử Đảng, số tháng 3.1992, tr. (?).

(c.2gt) Xin xem chương cuối tiểu thuyết.

(dgt) Xem: Nguyễn Đắc Hiền (chủ biên), Nguyễn Hữu Hiếu, Ngô Bé (biên soạn), ”Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc”, Khu Di tích Nguyễn Sinh Sắc và Sở Văn hoá - Thông tin Đồng Tháp xuất bản, 1990.

(egt) Vào năm 1979 hoặc 1980, trên báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng đã công bố ”Bị vong lục” về mối quan hệ Việt - Trung, tố cáo tham vọng bành trướng, bá quyền của tập đoàn lãnh đạo Trung Nam Hải (Bắc Kinh). “Bị vong lục” là sách (lục) làm đầy đủ (bị) lại những điều bỏ quên (vong), thường được gọi là sách trắng với nghĩa là nói trắng ra một cách minh bạch những chuyện tạm thời bị khuất lấp, bỏ quên trong quá khứ.

TXA.
________________________________________________

BÀI THỨ NĂM

Bài đã đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
số tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
posted: 21.9.2005


THIỀN HỌC VỚI Ý THỨC MINH TRIẾT VỀ DÂN CHỦ, BÌNH ĐẲNG
VÀ LINH HOẠT TRONG CÁCH SỐNG THIỀN

do Trần Xuân An sắp xếp lại một số trang tư liệu.


1. Quan niệm về Thượng Đế siêu hình và nghi thức niệm Phật danh:

“… Các bậc Thiền đức không tán thành thái độ của người Công giáo [Ca-tô – ct.] – cả người Công giáo huyền học – quá chấp nặng vào ý thức Chúa [Thượng đế - ct.], coi như đấng khai sáng và bảo hộ thế gian và muôn vật. […] Môn đệ của Triệu Châu, Vân Môn và các bậc cổ đức khác không nhằm chứng gì hơn là hoàn toàn đồng hóa hoặc viên dung cái tôi, năng tri, và đối tượng của tư tưởng, sở tri. Vì lí do đó, các ngài quyết không chịu đọc đến tiếng “Phật” hoặc “Thiền” trong bài giảng của các ngài. Chắc chắn đó không phải là phản Phật, mà chính vì Phật giáo đã hoàn toàn đồng hóa trong người các ngài. Chẳng hạn như câu chuyện sau đây của Pháp Diễn ở Ngũ Tổ Sơn (? – 1104) quở nhẹ đệ tử là Phật Quả Viên Ngộ (1063 – 1135).
Ngũ Tổ nói: “Được lắm, nhưng có chút chưa ổn”. Viên Ngộ gạn hỏi hai, ba lần chút ấy là gì, rốt cùng sư mới nói: “Ông nói đến “Thiền” nhiều quá”. Viên Ngộ phản ứng lại: “Sao vậy? Học Thiền thì tự nhiên nói “Thiền”, sư phụ ghét là sao?” Ngũ Tổ nói: “Như một cuộc nói chuyện thường ngày vậy, thì tốt hơn”. Một ông tăng có mặt lúc ấy hỏi: “Tại sao hòa thượng ghét nhất người ta nói đến “Thiền”?”. – “Vì nó làm cho ta bợn dạ”, đó là lời phán quyết của Sư.
Cùng tinh thần ấy, Lâm Tế Nghĩa Huyền (? – 867) có lối nói cực bạo, triệt để cách mạng. Nếu không quen với phương pháp dạy Thiền, nhưng đoạn văn trích sau đây khiến ta trố mắt, nghiến răng, tóc dựng đứng lên được…
[…]
“Cầu Phật, cầu pháp là tạo nghiệp địa ngục. Cầu bồ tát cũng là tạo nghiệp. Coi kinh, coi giáo cũng là tạo nghiệp. Phật với Tổ sư đều là người vô sự”…
[…]
“Này, quý ông cầu chân lí! Muốn ngộ vào chánh tông (Thiền), chớ để thiên hạ phỉnh mình. Trong cũng như ngoài, gặp chướng ngại nào cứ đạp ngã ngay. Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, gặp La Hán hoặc họ hàng thân thiết, giết hết, chớ ngần ngại. Đó là con đường độc nhất để giải thoát. Đừng để bất cứ ngoại vật nào trói buộc mình; hãy vượt lên, hãy vượt qua, hãy tự do. Tôi thấy trong suốt thiên hạ những vị gọi là cầu đạo không ông nào đến với tôi tự do và độc lập hết. […]. Tôi không có gì để cho quý vị. Tất cả những gì tôi có thể làm được là tùy bệnh mà cho thuốc, là giải phóng cho quý vị tất cả phiền trược”…
[…]
Đó là Lâm Tế chủ tâm quét sách tất cả ngấn bụi ý thức về Chúa [Thượng Đế - ct.] trong tâm người cầu chân lí. Lẫm liệt biết bao nhiêu, như lôi thần Thor, Sư giáng tất cả sấm sét trong từng lời cổ võ!”
.

(Daisetz Teitaro Suzuki, Thiền luận, quyển thượng, Trúc Thiên dịch, [luận bảy, tiết X, “Ý thức về Thượng đế”], Nxb. TP.HCM. tái bản, 1992, tr. 569 – 576).

2. Quan niệm về tượng Phật được tô đắp, điêu khắc để tôn thờ:

“…Một Thiền sư có nói: “Tâm nguyện của mỗi người phải vút lên bằng ngôi vị Phật Tì Lô đồng thời tình ý ở đời phải hạ thấp sát đất đến độ sẵn sàng quỳ dưới chân một đứa con nít”.
Nói một cách khác, đó là: “Muốn được cao trên thiên hạ, phải hạ thấp dưới thiên hạ, và làm tôi tớ cho thiên hạ”.
[Vì vậy, – ct.] nên sinh hoạt ở Thiền đường được quy định tỉ mỉ, mọi chi tiết cần được nghiêm chỉnh vâng theo nhằm thực hiện tinh thần ấy. Khiêm hạ, thanh bần, và tịnh tâm – đó là những lí tưởng tránh cho Thiền khỏi sa vào tệ bịnh của hàng triết gia mâu thuẫn luận thời Trung cổ* (cước chú: * Nguyên văn: medieval antinomians). […]
Thiền sư Đơn [:Đan – ct.] Hà Thiên Nhiên (738 – 824), đời nhà Đường, dừng bước vân du ở chùa Huệ Lâm, tại Kinh Đô; gặp tiết đại hàn giá buốt, sư rinh một tượng Phật lớn xuống bửa ra đốt sưởi ấm. Ông từ kinh hoảng hỏi: “Sao Hòa thượng dám đốt tượng Phật của tôi?”. Sư đưa gậy bới vào đống tro lửa như tìm kiếm vật gì, đáp: “Tôi đốt Phật để tìm xá lợi”. Ông từ nói: “Phật gỗ mà xá lợi ở đâu?”. Sư bảo: “Thế sao ông trách tôi? Ông cho tôi xin nốt hai phong tượng kia để sưởi cho đỡ lạnh”.
Sau đó, ông từ rụng hết lông mi * (cước chú: * về câu chuyện Thúy Nham nhắc đến truyền thuyết cho rằng người nào giảng sai giáo pháp của Phật sẽ rụng hết lông mày), vì lời quở trách Đơn Hà tội phạm thánh, còn sự thịnh nộ của Phật không bao giờ giáng xuống đầu Đơn Hà.
Dầu đáng ngờ về phương diện lịch sử, câu chuyện trên được truyền tụng nhiều, và các Thiền sư đều đồng ý về sự triệt ngộ của nhà sư Đơn Hà đốt tượng Phật”.
“Sau đó có ông tăng hỏi một Thiền sư về ý nghĩa Đơn Hà đốt tượng Phật, Sư nói:
“Lạnh đến lò than bên lửa sưởi”
Lại hỏi: Nhưng Đơn Hà có tội không?
Sư đáp:
“Nóng ra rừng trúc cạnh khe ngồi””.


(Daisetz Teitaro Suzuki, Thiền luận, quyển thượng, Trúc Thiên dịch, [luận bảy, tiết V, “Khiêm hạ” , tr. 543 – 550], Nxb. TP.HCM. tái bản, 1992, tr. 545 – 546).

”Thiền sư Trung Quốc, môn đệ của Thiền sư Thạch Ðầu Hi Thiên và Mã Tổ Ðạo Nhất và cũng là thầy của Thiền sư Thúy Vi Vô Học. Sư là nhân vật chính trong Công án 76 của Bích nham lục.
Như Thiền sư Viên Ngộ Phật Quả thuật lại trong Bích nham lục, Sư trước học Nho, đi vào Trường An ứng thi làm quan. Trên đường đi Sư gặp một thiền khách, ông ta hỏi: “Nhân giả đi đâu?”. Sư đáp: “Ði thi làm quan”. Ông khách lại nói: “Thi làm quan đâu có bằng thi làm Phật”. Sư hỏi: “Thi làm Phật phải đến chỗ nào?”. Ông khách đáp: “Hiện nay ở Giang Tây có Mã Ðại sư ra đời, là trường thi làm Phật, nhân giả nên đến đó”. Sư bỏ thi, tìm đến Giang Tây ra mắt Mã Tổ. Mã Tổ lại khuyên Sư đến Thạch Ðầu Hi Thiên.
Ðến Thạch Ðầu, Sư luân phiên làm bếp ba năm (Ðiển tọa). Một hôm Thạch Ðầu bảo chúng: “Ngày mai cắt cỏ ở dưới điện Phật”. Sáng hôm sau, đại chúng mỗi người cầm liềm cầm cuốc đến trước chùa làm cỏ. Chỉ riêng Sư lấy thau múc nước gội đầu, đến quỳ gối trước Hòa thượng. Thạch Ðầu thấy thế cười liền cạo tóc cho Sư. Cạo xong, Thạch Ðầu lại vì Sư nói Giới (s: śīla), Sư bịt tai ra đi.
Trở lại Giang Tây yết kiến Mã Ðại sư, chưa lễ ra mắt, Sư đi thẳng vào tăng đường trèo lên cổ tượng Văn Thù ngồi. Ðại chúng kinh ngạc chạy báo cho Mã Tổ hay. Tổ đích thân vào tăng đường, trông thấy, bèn nói: “Con ta, Thiên Nhiên!”. Sư bèn bước xuống lễ bái, thưa: “Cảm tạ thầy ban cho pháp hiệu”. Mã Tổ hỏi: “Từ đâu đến?”. Sư thưa: “Từ Thạch Ðầu đến”. Tổ hỏi: “Ðường Thạch Ðầu trơn, ngươi có té chăng?”. Sư đáp: “Nếu có trợt té thì chẳng đến đây”.
Sau khi từ biệt Mã Tổ, Sư vẫn tiếp tục du phương. Ðến chùa Huê Lâm, gặp lúc trời lạnh, Sư bèn lấy tượng Phật gỗ đốt để sưởi, viện chủ trông thấy quở: “Sao đốt tượng Phật của tôi?”. Sư lấy gậy bới tro nói: “Tôi đốt tìm Xá-lị”. Viên chủ bảo: “Phật gỗ làm gì có Xá-lị?”. Sư nói: “Ðã không có Xá-lị, thì thỉnh thêm hai vị nữa, đốt”. Viện chủ nghe câu này tất cả kiến chấp đều tan vỡ.
Niên hiệu Trường Khánh, năm thứ tư (824), ngày hai mươi ba tháng sáu, Sư gọi đệ tử bảo: “Lấy nước nóng tắm, ta sắp đi đây”. Tắm xong, Sư đội mũ mang giày cầm trượng, duỗi một chân chưa đến đất, liền tịch. Vua sắc phong là Trí Thông Thiền sư”
.

(Website Thư viện Hoa Sen, Từ điển Phật học, mục từ ”Đan Hà Thiên Nhiên,
http://www.daouyen.com/Data/Ph_DD/DD51.htm ).

“Trên lí thuyết, đạo lí Thiền vượt ngoài tầm hiểu biết bằng tư biện, không bị ràng buộc trong luật mâu thuẫn luận lí. Nên đó là một miếng đất quá trơn, nhiều người không đi thẳng lưng được. Và hễ vấp váp thì kết quả thật tai hại. Cũng như nhiều nhà huyền học thời trung cổ, người học dễ bị sa đọa, trở thành phóng đãng, hết kiểm soát được mình. Lịch sử từng chứng minh điều ấy, và khoa tâm lí học cũng dễ giải thích diễn trình sa đọa ấy. Nên một Thiền sư Thiền sư có nói: ”Tâm nguyện của mỗi người phải vút lên bằng ngôi vị Phật Tì Lô đồng thời tình ý ở đời phải hạ thấp sát đất đến độ sẵn sàng quỳ dưới chân một đứa con nít”.
Nói một cách khác, đó là: “Muốn được cao trên thiên hạ, phải hạ thấp dưới thiên hạ, và làm tôi tớ cho thiên hạ” …
[…] Thế mới biết vai trò của kỉ luật Thiền đường quan hệ như thế nào trong việc truyền dạy đạo Thiền cũng như ứng dụng vào sinh họat thế tục”
.

(Daisetz Teitaro Suzuki, Thiền luận, quyển thượng, Trúc Thiên dịch, [luận bảy, tiết V, “Khiêm hạ”, tr. 543 – 550], Nxb. TP.HCM. tái bản, 1992, tr. 544 – 545).

3. Quan niệm về kinh sách – Phật pháp:

“Không gì biểu minh cụ thể hơn giáo lí xả chấp của Phật bằng thí dụ thông thường về “chiếc bè”, có lẽ hơi khó hiểu đối với đôi học giả quen sống trong không khí trí thức đối nghịch khác. Cũng như một chiếc bè, tất cả “pháp” còn phải xả, huống nữa là “phi pháp” * (cước chú: * Trung Bộ kinh 22), đó là phiên khúc căn bản chạy dài suốt bộ sử diễn tiến của giáo lí Phật giáo. […] Thật vậy, cái “không” của các bộ kinh Bát Nhã chẳng gì khác hơn là bài triết luận về giáo lí xả chấp* (cước chú: * Coi Sulta Nipata, V. 21: “Ta đã đóng một chiếc bè chắc chắn, ta đã đến tận Niết Bàn, ta đã qua bờ bên kia, chiến thắng dòng cuồng lưu tham dục; ta không còn dùng chiếc bè vào việc gì nữa, vậy trời muốn mưa thì cứ mưa”). Kinh Kim Cương nói như vầy: “Như Lai thường dạy rằng, các thầy tì khưu nên biết pháp ta nói ra ví như chiếc bè đưa qua sông: pháp còn nên bỏ, huống nữa chẳng phải là pháp.”
Thí dụ ấy, “Trung Bộ kinh” giảng rộng như sau:
]“Này các thầy tì khưu, lời ta dạy ví như chiếc bè, để đưa qua [sông – ct.], không phải để mang giữ. Hãy nghe nhớ kĩ lời ta đây. Ví như có người suốt ngày đi đường nhọc mệt, gặp phải một con sông rộng nước sâu; bờ sông bên này đầy lo sợ và hiểm nghèo, còn bờ bên kia thì yên ổn, không [phải - ct.] sợ sệt, nhưng không có ghe thuyền đưa qua sông, mà cũng không có cầu bắc nối hai bờ. Ví như người ấy nghĩ bụng như vầy: Quả thật sông thì rộng, nước thì sâu; bờ bên này đầy lo sợ và hiểm nghèo, còn bờ bên kia thì yên ổn, không [phải – ct.] sợ sệt; nhưng không có thuyền mà cũng không có cầu đưa ta qua bờ bên kia. Sao ta không thử lượm lặt những lau sậy, những que cành chà lá, kết lại làm bè coi sao? Rồi ngồi trên bè, ta dùng tay dùng chân làm chèo, chèo êm qua bờ bên kia. Theo đó, này các thầy tì khưu, ví như người ấy lượm lặt những lau sậy, những que cành chà lá, kết lại làm bè, rồi dùng tay dùng chân làm chèo, chèo êm qua bờ bên kia. Bấy giờ, sông qua rồi, bờ đến rồi, ví như người ấy nói vầy: Quả thật chiếc bè ấy đã giúp tôi nên việc lớn. Nhờ nó chở tôi, và tôi dùng tay dùng chân làm chèo, tôi mới qua êm được đến bờ bên kia; bây giờ phỏng như tôi đội chiếc bè trên đầu hoặc mang nó trên vai, và cứ thế mà lên đường đi đâu tùy thích [chăng –ct.]? Các thầy tì khưu nghĩ sao? Người ấy dùng bè như vậy có khôn ngoan không? – Bạch ngài, nhất định là không. – […] Cũng như vậy đó, các thầy tì khưu, giáo pháp tôi day các thầy ví như chiếc bè, cốt để đưa qua [sông – ct.], không phải để mang giữ. Thấu rõ như vậy đối với pháp, các thầy còn phải xả thay, huống nữa là cái phi pháp” * (cước chú: * Pháp: dhrama; phi pháp: addhrama (chẳng phải là pháp))”
.

(Daisetz Teitaro Suzuki, Thiền luận, quyển thượng, Trúc Thiên dịch, [luận ba, tiết V, “Dhyana (Thiền) và chiếc bè pháp (dhrama)”, tr. 229 - 239], Nxb. TP.HCM. tái bản, 1992, tr. 234 – 237).

“Để hiểu rõ thêm về bản chất của đức tin trong đạo Phật, ta nên đọc lại đoạn này trong kinh Kalama:
“Một hôm, các vị hoàng tử xứ Kalama đến bạch Phật: “Thưa ngài, trong khi các vị đệ tử dòng họ Thích cho rằng giáo lí của Phật là đúng. Vậy thì các nhà truyền giáo khác cũng cho rằng giáo lí của họ cũng đúng. Vậy chúng tôi biết nghe theo ai?”. Phật trả lời: “Này các hoàng tử Kalama: Đừng vội công nhận một điều gì, dù điều đó là điều người ta hay nói. Đừng vội công nhận một điều gì, dù điều đó là điều ấy phù hợp với nội giáo. Đừng vội công nhận một điều gì, dù điều đó mình rất ưa thích. Đừng vội công nhận một điều gì, dù điều đó phù hợp với chủ trương của mình. Đừng vội công nhận một điều gì, dù điều ấy do một người có uy tín nói ra. Đừng vội công nhận một điều gì, dù điều ấy được nhiều người đáng kính trọng tuyên bố”.
“Này các hoàng tử Kalama, khi nào các ông nhận biết bằng lí trí các ông rằng, một cái gì đó là bất thiện, là đáng chê trách, là bị kẻ thức giả phủ nhận, và nếu đem cái ấy ra mà công nhận và thực hành theo thì sẽ mua lấy đau khổ và tan nát, [vậy – ct.] thì các ông hãy bác bỏ nó đi”.
“Và khi nào các ông nhận biết rằng lí trí các ông rằng, một cái gì đó là thiện, là không bị chê trách, là được kẻ thức giả tán thưởng, và nếu đem cái ấy mà công nhận và thực hành theo thì sẽ đạt tới sự an lạc và hạnh phúc, [vậy – ct.] thì các ông hãy tin nó và đem nó ra thực hành”
.

(Thích Nhất Hạnh, “Đạo Phật đi vào cuộc đời”, [bài “Đạo Phật, con đường thực nghiệm tâm linh” , trích dẫn Kinh Kalama], bản in lần thứ 2, Nxb. Lá Bối, Sài Gòn, 1966, tr. 189 – 190;
http://www.thuvienhoasen.org/tnh-daophattamlinh.htm ).

4. Quan niệm về việc trì giới linh hoạt:

“Một hôm, hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm (em gái của Thượng Sĩ Tuệ Trung) mở tiệc trong cung điện. Trên bàn có cả thức ăn mặn và thức ăn chay. Thượng Sĩ gắp thức ăn không phân biệt chay hay mặn. Hoàng thái hậu hỏi :
“Anh tu Thiền mà ăn thịt cá thì làm sao thành Phật được ?”.
Thượng Sĩ cười đáp : “Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần thành Phật. Phật cũng không cần thành anh. Em không nghe các bực cổ đức nói Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao”.
Trong bữa tiệc này có cả vua Trần Nhân Tông; vua rất thắc mắc về việc này và chưa hiểu rõ ý nghĩa câu trả lời của Thượng Sĩ, nhưng chưa tiện hỏi.
Dù là bậc hoàng tộc tôn quý (anh rể của thượng hoàng, cậu ruột của vua Trần Nhân Tông) và có chức tước cao sang bực nhất trong nước, nhưng Thượng Sĩ Tuệ Trung không ham thích công danh, sống thanh tịnh, an đường tu hành nơi Thái ấp Tịnh Bang, lập Dưỡng Chân Trang để tu Thiền và hoằng dương Phật pháp. Thượng Sĩ sống an nhàn tự tại, hòa lẫn trong thế tục, vui trong thiền duyệt, hết lòng dìu dắt những người muốn tu hành theo đạo Phật.
Phật tử đến tham học Phật pháp, Thiền giả đến tham vấn Thiền, Thượng Sĩ đều hết lòng chỉ dẫn những chỗ tâm yếu, khiến họ thông hiểu được lí đạo và ham thích tu học, không có vẻ quyền quý cao sang cách biệt với kẻ dưới, không phân biệt sang hèn, chưa hề phụ ai bao giờ.
Thượng Sĩ Tuệ Trung là một cư sĩ thọ giới Bồ Tát, sống chân thực và bình dị theo tinh thần của một thiền giả, nên sống rất tự tại, phóng khoáng, không câu chấp lễ nghi, tiểu tiết. Những điều luận bàn huyền nhiệm về Phật pháp là những thiền ngữ của ngài đều được các nhà Thiền học thời đó hết sức kính trọng, và vẫn còn giá trị cho đến ngày nay”.
“… Năm Đinh Hợi (1287), hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm băng. Thượng hoàng Trần Thánh Tông trông lo việc triều chính ở kinh đô, vua Trần Nhân Tông phải cấp tốc về đất An Bang để thỉnh cậu là Thượng Sĩ Tuệ Trung về lo lễ tang. Trên đường về kinh đô bằng thuyền, có thời giờ để Thượng Sĩ Tuệ Trung và cháu (vua Trần Nhân Tông) đàm luận. Trong khi đó, vua vẫn còn thắc mắc về việc Thượng Sĩ ăn mặn và những câu trả lời của Thượng Sĩ trong bữa tiệc mà Thái hậu đãi lần trước, vì vậy, vua hỏi Thượng Sĩ: “Thưa cậu, chúng sanh quen cái nghiệp ăn thịt, uống rượu, làm thế nào thoát khỏi tội báo nghiệp lực?”.
Thượng Sĩ đáp: “Nếu có người đứng xây lưng lại, thình lình có vua đi qua phía sau lưng, người kia không biết, vô tình ném vật gì đó trúng vào vua, thử hỏi người ấy có sợ bị tội hay không, và vua có giận, bắt tội hay không? Nên biết, hai việc đó không dính dấp gì đến nhau cả”. Tiếp theo đó, Thượng Sĩ đọc cho vua nghe hai bài kệ trong kinh sách Phật :
Vô thường chư pháp hành
Tâm nghi tội tiện sanh
Bổn lai vô nhứt vật
Phi chủng diệc phi manh
Nhựt nhựt đối cảnh thời
Cảnh cảnh tòng tâm xuất
Tâm cảnh bổn lai vô
Xứ xứ Ba-la-mật.

Tạm dịch:

Vô thường các pháp hiện,
Tâm ngờ tội liền sanh
Xưa nay không một vật
Không giống cũng không mầm
Ngày ngày thì đối cảnh
Cảnh cảnh theo tâm xuất
Tâm, cảnh, vốn là không
Khắp nơi là “Niết bàn”.
Vua suy nghĩ giây lâu nhưng vẫn chưa hiểu hết ý Thượng Sĩ, nên lại hỏi cậu: “Tuy là như vậy, nhưng nếu tội là phước rõ ràng thì làm thế nào?”.
Thượng Sĩ biết vua chưa hiểu rõ nên đọc thêm một bài kệ để chỉ bảo thêm :
Khiết tháo dữ khiết nhục
Chúng sanh các sở thuộc
Xuân lai bách thảo sanh
Hà xứ kiến tội phúc!
Trúc Thiên dịch:
Ăn chay cùng ăn thịt
Chúng sanh tùy sở thích
Xuân về cây cỏ tươi
Chỗ nào thấy tội, phước!
Vua lại hỏi: “Như vậy, việc công phu giữ giới tinh nghiêm không chút lơi lỏng là để làm gì?”. Thượng Sĩ chỉ cười mà không đáp câu hỏi. Vua cố năn nỉ, Thượng Sĩ đọc hai bài kệ ấn tâm cho vua:
Trì giới kiêm nhẫn nhục
Chiêu tội bất chiêu phúc
Dục tri vô tội phúc
Phi trì giới nhẫn nhục
Như nhân thượng thọ thì
An trung tự cầu nguy
Như nhân bất thượng thọ
Phong nguyệt hà sở vi.

Tạm dịch:

Trì giới và nhẫn nhục
Chuốc tội chẵng chuốc phúc
Muốn biết không tội phúc
Không nhẫn nhục trì giới
Như người đang leo cây
Đang yên lại tìm nguy
Như người không leo cây
Trăng gió làm gì được?
Đoạn Thượng Sĩ bí mật dặn kĩ vua:
“Đừng nói với những người không hiểu biết (vật thị phi nhân)”.
Từ đó, vua Trần Nhân Tông mới biết môn phong Thiền học của Thượng Sĩ cao thâm siêu việt. Một hôm khác, vua Trần Nhân Tông hỏi Thượng Sĩ về “yếu chỉ của Thiền Tông” và muốn biết được bí quyết giác ngộ mà Thượng Sĩ được Thiền sư Tiêu Dao truyền.
Thượng Sĩ ứng khẩu đáp: “Hãy quay về tự quán xét chính bản thân mình chứ không thể nhờ một người nào khác (phản quan tự kỉ bản phận sự, bất tòng tha đắc)”.
Nhờ vào lời dạy thâm sâu bí yếu này của Thượng Sĩ mà vua Trần Nhân Tông ngộ được yếu chỉ của Thiền tông và thấy được đường vào Đạo. Từ đó, vua Trần Nhân Tông mới hết lòng tôn kính Thượng Sĩ và thờ Thượng Sĩ làm thầy”
.

(Trích Đoạn: “Tuệ Trung Thượng Sĩ với Thiền tông Việt Nam”, Viện Khoa học Xã hội, Trung tâm Nghiên cứu Hán – Nôm, Nxb. Đà Nẵng, 2000, tr. 352 – 355;
http://www.thuvienhoasen.org/ac-tuetrungthuongsivaanchay.htm ).

“Theo Tuệ Trung, không cần phải ăn chay, trì giới vì “ăn cỏ hay ăn thịt là tập quán tự nhiên của mỗi loài khác nhau, cũng như xuân về thì trăm cây cỏ nảy nở, không cái nào là tội và cái nào là phúc”. Thậm chí ông còn bảo “trì giới và nhẫn nhục chỉ chuốc tội chứ không chuốc phúc”. Thái độ quyết liệt này xét đến cùng nhằm đánh tan những đầu óc bảo thủ, cố chấp thường làm con người ta trở thành kẻ nô lệ của mọi thứ và của cả chính mình. Ở Tuệ Trung nổi bật một tinh thần “phá chấp” triệt để. Ông cực lực đả kích cái nhìn “nhị kiến”, phân chia mọi vật ra thành hai cực giá trị để gán cho nó một cực này hoặc cực kia. Tuy nhiên ngài đã bí mật dặn kĩ vua:
“Đừng nói với những người không hiểu biết (vật thị phi nhân)”.
Lời dạy của ngài là chân lí, là cứu cánh, nhưng kẻ tầm thường thì không nên biết. Vì họ biết qua lời này họ sẽ chấp. Hoà thượng Thanh Từ có giảng trong “Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục”, [phi nhân – ct.] là “những người tầm thường; họ không hiểu nổi những ý nghĩa thâm sâu thì không nên nói cho họ nghe, có hại. Những câu này chỉ nói cho người xuất cách, vượt khỏi tầm thường nghe; hạng người này mới có đủ khả năng tiếp nhận…”.


(HT. Thanh Từ, “Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục giảng giải”, Thiền viện Thường Chiếu Việt Nam ấn hành, 1996, tr. 104;
http://www.thuvienhoasen.org/ac-tuetrungthuongsivaanchay.htm ).

“Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà có của báu, đừng tìm đâu xa xôi
Đứng trước cảnh mà vô tâm thì không cần hỏi Thiền nữa..”
“Tinh thần bài thơ “Cư trần lạc đạo”, cũng là tôn chỉ của Đệ nhất tổ, nằm ở bốn điểm:
Hãy nên sống hòa mình với đời, không câu chấp. Hành động tùy duyên, tức làm việc cần làm, đúng lúc phải làm, và không trái quy luật tự nhiên.
Tự tin vào mình, trở về khơi dậy tiềm lực của chính mình, không tìm cầu tha lực.
Không nô lệ vào bất cứ cái gì, dù là Thiền hay Phật. Tinh thần này hoàn toàn nhất quán với quan điểm của Tuệ Trung, được tìm thấy qua thơ và ngữ lục của ông.
Ở Tuệ Trung nổi bật một tinh thần “phá chấp” triệt để. Ông cực lực đả kích cái nhìn “nhị kiến”, phân chia mọi vật ra thành hai cực giá trị để gán cho nó một cực này hoặc cực kia.
Theo Tuệ Trung, sự đối lập giữa “mê” và “ngộ”, giữa “sắc” và “không” (mê ngộ bất dị), giữa “phàm” và “thánh”, “ta” và“người”’, “Phật và “chúng sinh”, “phải và “trái”, “tà” và “chính” (phàm thánh bất dị), giữa “phiền não và “bồ đề” (Phật tâm ca) chỉ là một sự đối lập giả tạo. Thật sự “không” và “có” không khác biệt nhau, sống và chết đều từ một đợt sóng, xưa nay tất cả đều cùng một lẽ”. Mọi sự phân biệt lầm lẫn chỉ dẫn người ta đến chỗ tự mua dây buộc mình, suốt đời chạy vạy tìm kiếm cái không có thực... Ông khuyên “chỉ cần quên đi nhị kiến là có thể bao dung được các pháp giới”. Cũng trong tinh thần này, Tuệ Trung đã phá sự chấp trước vào cái khái niệm. Trả lời câu hỏi “thế nào là pháp thân thanh tịnh?”, Thượng Sĩ điềm nhiên bảo, “ra vào trong nước đái trâu, chui rúc giữa đống phân ngựa”. Thật là một đòn chí mạng đánh vào những đầu óc mê muội, giáo điều. Ông thẳng thắn chỉ rõ: “Vốn không có dơ, sạch. Dơ, sạch đều hư danh. Pháp thân không vướng ngại. Nào trọc lại nào thanh ?”. Với tinh thần cởi mở này, Tuệ Trung đã đạt đến một cách sống tự do tự tại mà Trần Nhân Tông từng ca ngợi và tâm đắc: “Trộn lẫn cùng thế tục, hòa cùng ánh sáng, đối với mọi vật chưa từng xúc phạm hay trái ngược”. Theo Tuệ Trung, không cần phải ăn chay trì giới, vì “ăn cỏ hay ăn thịt là tập quán tự nhiên của mỗi loài khác nhau, cũng như xuân về thì trăm cây cỏ nảy nở, không cái nào là tội và cái nào là phúc”. Thậm chí ông còn bảo “trì giới và nhẫn nhục chỉ chuốc tội chứ không chuốc phúc”. Thái độ quyết liệt này xét đến cùng nhằm đánh tan những đầu óc bảo thủ, cố chấp thường làm con người ta trở thành kẻ nô lệ của mọi thứ và của cả chính mình. Nhắc đến Tuệ Trung hẳn ít ai quên giai thoại độc đáo, lí thú về việc ông dự tiệc cùng Nguyên Thánh Thiên Cảm Thái hậu, gặp thịt cứ ăn…
Thái hậu lấy làm lạ hỏi : “Anh tu Thiền mà ăn thịt thì thành Phật sao được ? ông cười đáp : “Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật cũng chẳng cần làm anh. Cô chẳng nghe các bậc Cổ đức nói “Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát” đó sao ?” Câu trả lời có một không hai này, phải chăng là sự gặp gỡ sâu xa với quan điểm “bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai?” (xưa nay không một vật, lấy đâu vướng bụi đời?) của Lục tổ Huệ Năng, mặc dù Thượng sĩ không cần đến những lời lẽ quá khích như Lâm Tế: “Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ” để biểu đạt quan điểm phá chấp triệt để của Thiền…”
.

(”Tuệ Trung Thượng Sĩ với Thiền tông Việt Nam” , Viện Khoa học Xã hội, Trung tâm Nghiên cứu Hán – Nôm, Nxb. Đà Nẵng, 2000, tr. 24 – 25;
http://www.thuvienhoasen.org/ac-tuetrungthuongsivaanchay.htm ).

“Bậc đạo nhân chân chánh […] quyết nhiên không câu chấp vào ngoại vật, thì trước mắt tức thì hiện chánh pháp; […] vào ba đường địa ngục như dạo vườn cảnh; vào ngạ quỷ súc sanh mà chẳng thọ báo; vào sắc giới chẳng bị sắc mê hoặc; vào thanh giới chẳng bị thanh mê hoặc; vào vị giới chẳng bị vị mê hoặc; vào xúc giới chẳng bị xúc mê hoặc; vào pháp giới chẳng bị pháp mê hoặc” .

(Daisetz Teitaro Suzuki, ”Thiền luận”, [trích dẫn lời Lâm Tế Nghĩa Huyền (? – 867)], quyển thượng, Trúc Thiên dịch, [luận bảy, tiết X, “Ý thức về Thượng Đế” ], Nxb. TP.HCM. tái bản, 1992, tr. 569 – 576).

“… Cho nên học Phật là đào sâu vào kinh nghiệm tâm linh để nắm lấy nguyên lí, để thực hiện nguyên lí và để đạt đạo. Đạt đạo rồi thì không cần một bộ luật nào cả, không cần một sách chỉ nam nào cả, không cần một nền luân lí nào cả. Người đạt đạo ăn ngủ là đạo, thuyết pháp là đạo, ăn rau cũng là đạo mà ăn thịt cá cũng là đạo nữa. Những người chưa đạt đạo thì không thể bắt chước họ được (1)”.
“([Cước chú (1) của Hòa thượng Thích Nhất Hạnh: – ct.] Có một hôm Tuệ Trung Thượng Sĩ (Trần Quốc Tảng) được thỉnh thọ trai trong cung. Ngài gắp cả thịt cá trên bàn mà không ý thức. Hoàng hậu em Ngài hỏi: "Anh tu mà còn ăn mặn làm sao thành Phật ?". Ngài cười trả lời: " Phật là Phật, anh là anh, anh không cần thành ra Phật, Phật cũng không cần thành ra anh")
.

(Thích Nhất Hạnh, ”Đạo Phật đi vào cuộc đời”, [bài cùng tên sách], bản in lần thứ 2, Nxb. Lá Bối, Sài Gòn, 1966, tr. 41).

5. Đôi điều suy nghĩ của người tâm đắc Thiền học:

Người sắp xếp những dòng tư liệu trên chỉ nhấn mạnh (in đậm) một câu của Thiền sư Thích Nhất Hạnh: “Những người chưa đạt đạo thì không thể bắt chước họ được” (sđd.).
Phương pháp truyền dạy Thiền học của các thiền sư, thường là đề xuất vấn đề một cách rất ấn tượng, khiến người học phải động não để tự lí giải, và nhờ đó, tiếp nhận có hiệu quả, bền vững nhất. Học tập theo phương cách tu tập đó, tôi cũng chẳng dám lạm phép nghị luận, mặc dù chủ kiến không thể không có.
Tuy vậy, cũng xin nêu ra một số khía cạnh đơn giản và thiết thực:
a. Với chân lí “kiến tánh thành Phật”, “Phật tại tâm”, “niết bàn tại tâm”, Thiền học định hướng cho mỗi đạo hữu vào con đường tu tâm. Chúng sinh là vô số và đa dạng, mỗi người một căn cơ, do đó không có hình mẫu cụ thể nào là duy nhất, cho dù đó là Đức Phật Thích Ca. Cách nói dữ dội có tính phá chấp, buộc phải động não ấy của thiền sư Lâm Tế và cư sĩ Tuệ Trung Thượng Sĩ là với ý thức minh triết ấy: “Mỗi người tự thắp đuốc mà đi” , đi trên đường Thiền trong cõi ta bà với ý thức về chân lí đạo đức học phổ quát trong Thiền học.
b. Tất cả các pho tượng (để hướng chân tâm), kinh sách (để nghiên cứu, học tập), nghi thức tụng niệm (để tự kỉ ám thị điều lành, tránh điều ác) đều là phương tiện, trong khi đó, cứu cánh (mục đích cuối cùng của các mục đích) là “kiến tánh thành Phật” – Phật với ý nghĩa nghiêm chỉnh của danh từ là người giác ngộ bản chất của trần gian ta bà và chân lí hướng đến. Ai cũng có thể thành Phật, như Phật Thích Ca đã nói: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành” .
c. Ngay cả ý thức và ý chí tu trì theo các giới luật cũng chỉ là phương tiện để đạt đạo. Tất nhiên, người ăn chay (chấm dứt cả thị dục trong ăn uống) dứt khoát phải được xếp cao hơn nhiều bậc so với người ăn mặn. Người xuất gia, không kết hôn (khác với giới luật Tin Lành và một vài tôn giáo khác), đã thực hiện đúng chữ “vô” một cách nghiêm ngặt nhất, bởi lẽ, họ cần tu luyện để làm tấm gương sáng về ý thức diệt dục và chứng minh khả năng diệt dục của sinh vật người. Tuy nhiên, con đường xuất xử của nhà nho mà thiền sư Đan Hà, thuở bấy giờ, nửa đường rẽ lối sang Thiền đạo, không phải là con đường không cần thiết, thậm chí là rất cần thiết, cho con người, xã hội và dân tộc, Đất nước.
d. Trong hoài bão của nhiều trí thức trẻ hiện nay, vốn là đạo hữu (chứ không phải là Phật tử) của Đức Phật Thích Ca, chắc hẳn là việc xây dựng một giáo hội Phật giáo Việt Nam đậm tính dân tộc, khoa học và hiện đại. Định hướng khế lí (giữ vững nguyên lí Phật pháp) và khế cơ (linh hoạt theo sự phát triển nhận thức và công nghệ hiện đại) của họ, hẳn là những thiền viện tối tân, đạm chứ không nồng, và Thiền học được tu tập như một triết học thực hành, mà trong đó, đạo đức học thực hành là chính yếu.
Cuối cùng, tôi muốn một lần nữa viết lại nhan đề của bài gom nhặt tư liệu Thiền học này:
THIỀN HỌC VỚI Ý THỨC MINH TRIẾT
VỀ DÂN CHỦ, BÌNH ĐẲNG
VÀ LINH HOẠT TRONG CÁCH SỐNG THIỀN.

Việt Nam, TP. HCM., lúc 16 : 20, ngày 21 tháng 9 năm HB5
Trần Xuân An
soạn và cảm nghĩ.

________________________________________________


BÀI THỨ SÁU

Bài đã đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
số tháng 10-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm
posted: 03.10.2005

Trần Xuân An
PHÁP MÔN BẤT NHỊ TRONG THIỀN HỌC VÀ MÂU THUẪN LUẬN TRONG
TRIẾT HỌC KINH TẾ - CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI


1

Với nhận thức phổ thông nhất về Phật học, hầu như không một ai không biết yếu tính của triết học Phật giáo đặt trên một trong những nền tảng là nỗi khổ đau vô biên, vô tận của nhân loại. Đối với Phật giáo, có thể nói sự nhận thức về nỗi khổ đau sinh lão bệnh tử có tính phổ quát ấy và việc đề xuất những pháp môn, hay nói cách khác, vạch ra những lối nẻo để cùng dẫn về một con đường giải thoát khỏi nỗi khổ đau chung, nhằm đạt được niềm an lạc cho thân tâm mọi chúng sinh, là vấn đề trung tâm nhất, cốt tủy nhất.
Tuy nhiên, khổ đau còn được nhận thức ở từng thân phận, từng tâm trạng riêng biệt, cụ thể của từng cá nhân, mặc dù khẳng định nguyên nhân phổ quát: chung quy cũng khởi phát từ hằng số chung: thất tình, lục dục… và tâm biện biệt.
Cũng đã có nhiều sách vở đã đã đề cập đến cơ sở lịch sử – xã hội của khởi điểm và quá trình phát sinh, hình thành Phật giáo: đó là tình trạng phân hóa giai cấp gay gắt trong xã hội Bắc Ấn cổ đại vốn theo Bà-la-môn giáo, một tôn giáo thừa nhận sự bất bình đẳng về giai cấp vì Bà-la-môn cho rằng, người nào ra đời trong giai cấp nào là do tiền kiếp với nghiệp dĩ (karma) của người đó quy định theo luật nhân quả. Thật vậy, nỗi khổ đau về tình trạng phân hóa giai cấp xã hội Bắc Ấn và cõi ta bà trần gian này cũng chính là một trong những nỗi khổ đau lớn lao, sâu sắc trong trái tim, trí tuệ của thái tử Tất Đạt Đa, người sẽ và đã rời bỏ ngai vàng trong tương lai sẽ được kế vị để tìm đạo, tu đạo, thành đạo, trở nên vị Phật khất sĩ vĩ đại của nhân loại. Phân hóa giai cấp xã hội, cụm từ này còn được diễn đạt là mâu thuẫn xã hội. Nhìn ở khía cạnh không thể tránh né được, rõ ràng có mâu thuẫn là có khổ đau. Khổ đau vì mâu thuẫn, ở phương diện này, chính là sự phân hóa giàu – nghèo, sang – hèn, bóc lột – bị bóc lột do cơ cấu giai cấp (tăng lữ Bà-la-môn – chiến sĩ – thứ dân – cùng đinh) tạo ra.
“Làm gì có đẳng cấp trong nước mắt cùng mặn
Làm gì có đẳng cấp trong máu cùng đỏ”
.
Đó là một trong những câu nói sâu thẳm, thấm thía nhất của Đức Phật đã được hàng đệ tử ghi lại, thể hiện nỗi khổ đau phân hóa giai cấp này.
Nhìn một cách tổng quát với tuệ nhãn của Đức Phật, như trên đã phác họa, ấy là những nỗi khổ đau lớn của nhân loại – khổ đau trong lẽ tồn sinh muôn thuở và khổ đau nảy sinh từ hình thái xã hội có giai cấp mang tính phổ quát, từ nghìn xưa cho mãi đến đầu thế kỉ XXI này –, không biết đến bao giờ con người và chúng sanh muôn loài mới được hạnh phúc, an lạc.
“Đại dương muôn trùng cũng không nhiều bằng nước mắt khổ đau của chúng sinh đã chảy” – Đức Phật Thích Ca cũng đã từng nói khái quát về khổ đau nói chung như thế.

2

Khổ đau của chúng sinh là có thật, mọi nơi và muôn thuở. Do đó, Phật giáo không phải chỉ là một tôn giáo với triết học đơn thuần là nhận thức luận. Phật giáo còn là một triết học thực hành và vạch ra con đường giải thoát; nói theo một cụm từ khác, Phật giáo còn là một triết học dấn thân và cải tạo thế giới(cải thiện xã hội loài người) nhưng không thông qua chiến tranh, bạo lực cách mạng.
Khổ đau và giải thoát (trước hết phải giải thoát khỏi sự u tối [:vô minh] về khổ đau), vấn đề cơ bản này, nguyên được gọi là Tứ điệu đế, từ nghìn xưa đã được Đức Phật giảng thuyết một cách khúc chiết, và qua bao thế hệ, cho đến nay, nhiều tăng sĩ, thiền sư đã trở đi trở lại trong nhiều bài viết của các vị. Hòa thượng đồng thời là nhà nghiên cứu và hướng dẫn thực hành kinh điển Phật giáo Thích Nhất Hạnh, trong cuốn “Đạo Phật đi vào cuộc đời”, đã truyền đạt lại nguyên lí ấy sau khi xác lập một không khí đối thoại ở bài viết “Đi tìm một prajnapti cho thời đại”:
“Phật Thích Ca không muốn môn đệ của Ngài để tri thức phiêu lưu trong thế giới vọng tưởng siêu hình.
Ngài luôn luôn từ chối những câu hỏi thuộc phạm vi siêu hình. Một hôm để trả lời cho một vị đệ tử hỏi những câu hỏi như thế, Ngài nói: “Này các vị, đừng nên thắc mắc về vũ trụ này là hữu hạn hay vô hạn, hữu cùng hay vô cùng. Dù nó hữu hạn hay vô hạn, hữu cùng hay vô cùng thì chúng ta vẫn phải chấp nhận sự thực này trước tiên: đó là sự hiện hữu của đau khổ trên cuộc đời”
(1).
[…].
“Tứ diệu đế, giáo lí căn bản của đạo Phật, không hẳn là một quan niệm nhân sinh. Đó là một quan niệm về nhận thức – bởi vì đạo Phật là đạo nhận thức, chữ budha có nghĩa là người đạt được nhận thức viên mãn. Tứ diệu đế là bốn sự thực có tính cách thực nghiệm. Sự thực thứ nhất là sự hiện hữu của khổ đau, của u tối. Sự thực thứ hai là sự hiện hữu của những nguyên do gây nên khổ đau, u tối này. Sự thật thứ ba là nếu có những nguyên do gây nên khổ đau và u tối thì những nguyên do ấy cũng có thể tiêu diệt được. Sự thực thứ tư là vì u tối có thể tiêu diệt được, cho nên phải có những phương pháp và đường lối thực hiện sự tiêu diệt đó. Cả bốn sự thật ấy đều là những điều cấp thiết, rút ra từ kinh nghiệm trên thực tại” (1).
Thiền sư Thích Nhất Hạnh còn đưa ra một ví dụ về người thầy thuốc với kiến thức đầy đủ về y lí, liệu pháp (“bệnh tật, nguyên do bệnh tật, sự lành bệnh và phương pháp trị liệu”), rồi kết luận: “Đó là những sự thực y học mà cũng là những sự thực Phật học vậy” (1).
Ở một bài viết khác trong cuốn sách đã dẫn, thiền sư Thích Nhất Hạnh lại viết: “Những học giả nghiên cứu về Phật học đã đồng ý với nhau rằng đạo Phật là một đạo lí hướng dẫn con người trong công việc giải quyết những vấn đề trọng đại của sự sống, thứ nhất là vấn đề khổ đau”. […]. “Đức Phật đã từ chối không đưa các đệ tử đi sâu vào những suy luận siêu hình viển vông vô ích, và đã đưa mọi người trở về cuộc sống hiện thực để giải quyết những khổ đau hiện thực. Khổ đau là một thực tại quá hiển nhiên, quá to lớn; con người không có thể nhắm mắt phủ nhận nó để đi giải quyết những vấn đề xa xôi bằng một công cụ trí thức kém cỏi bao phủ bởi những từng lớp vô minh và dục vọng tích tập bao đời bao kiếp” (2).
Cứu cánh của Phật giáo là giải thoát khổ đau thực tại của nhân loại (chủng sinh-vật-người) và tất cả chúng sinh muôn loài để đạt cho được niềm an lạc thân tâm. Không nghi ngờ gì nữa về cứu cánh tối hậu ấy, nhưng đâu là phương cách, liệu pháp, đâu là con đường? Tám vạn bốn ngàn (84.000) là con số tượng trưng cho vô số chúng sinh trên cõi trần ai ta bà này, nơi mà chính thi sĩ Nguyễn Du đã khái quát một cách minh triết: “Hay đâu địa ngục ở miền trần gian” (Kiều: 1706). Phật giáo đã đưa ra vô số pháp môn tu tập (vô số phương cách, liệu pháp, con đường tu đạo và đạt đạo) và hàng nghìn năm nay đã được chấp nhận.
Bất nhị là một trong tám vạn bốn ngàn pháp môn ấy.

3

Bất nhị là không hai. Pháp môn, cửa vào cõi Phật. Đó là một trong hằng hà sa số cửa vào Niết bàn – cõi thanh tịnh, an lạc, hạnh phúc thanh khiết. Không có gì giản dị hơn, nếu căn cứ vào nghĩa chữ.
Tuy vậy, pháp môn bất nhị vẫn là một trong vài pháp môn khó hiểu nhất, và có lẽ cũng khó tu tập nhất, nhất là đối với những ai quen sống trong môi trường văn hóa luận lí rành mạch, rạch ròi và thiên hướng về thực tại hiện tiền.
Thiền sư Muju trong cuốn “Góp nhặt cát đá” (3), có kể lại một câu chuyện thiền rất sâu sắc. Chuyện rằng: Có một vị khách, giáo sư đại học, tìm đến nhà sư, đề nghị được nghe giảng Phật học. Nhà sư tiếp khách, nhưng chỉ im lặng, rót nước mời khách, lại rót mãi mặc dù chén trà đã tràn đầy, đổ xuống ướt ngập cả đĩa lẫn khay trà, trong sự kinh ngạc của khách. Hồi lâu sau, nhà sư mới trân trọng đổ sạch chén trà đầy ắp nước ấy, lại trân trọng rót vừa phải và mỉm cười mời vị khách quý. Nhà sư điềm đạm giải thích: “Giống như cái tách này” – Nan-in nói – “ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng của ông. Làm sao tôi có thể bày tỏ Thiền cho ông được, trừ phi ông cạn cái tách của ông trước?” (3). Đại để: Khi một người chứa chất quá nhiều tri kiến khác biệt, thậm chí là định kiến hay thành kiến, người ấy không thể tiếp nhận Thiền học được, như thể chén trà đầy ắp nước, rót thêm chỉ tràn ra ngoài mà thôi. Hãy để tâm trí mình như chén trà rỗng không, mới có thể tiếp nhận Thiền học. Thiền học cũng như nước trà ấy, ngọt dịu và có tác dụng giúp người uống tỉnh táo.
Dẫu đã chuẩn bị tâm thế, hay dùng một từ giản dị hơn, là dọn lòng, để tiếp nhận pháp môn bất nhị, người đọc cũng hết sức lúng túng, bối rối trước cách nói của 42 vị bồ tát trong Kinh Duy Ma Cật, một bộ kinh có đề tài chính yếu là pháp môn bất nhị.
“Duy Ma Cật hỏi các Bồ tát : “Theo các Ngài, thế nào là Bồ tát nhập pháp môn bất nhị ?”.
Bồ tát Pháp Tự Tại trả lời : “Thừa, diệt là hai, pháp vốn không sanh cũng không diệt, được vô sanh diệt, là nhập bất nhị pháp môn”.
Bồ tát Ðức Thủ nói : “Ngã, ngã sở là hai. Nhân có ngã mới có ngã sở. Nếu không có ngã thì không có ngã sở. Ðó là nhập bất nhị pháp môn”
Bồ tát Thiện Túc nói : “Ðộng, niệm là hai. Không động thì không niệm, không niệm thì không phân biệt, thông suốt lý ấy, là nhập bất nhị pháp môn”.
Bồ tát Sư Tử Ý nói : “Hữu lậu, vô lậu là hai. Nếu chứng được các pháp bình đẳng thì không có tướng hữu lậu và vô lậu. Không chấp có tướng, cũng không chấp vô tướng. Ðó là nhập bất nhị pháp môn”.
Bồ tát Tịnh Giải nói : “Hữu vi, vô vi là hai. Nếu lìa tất cả thì tâm như hư không, dùng tuệ thanh tịnh không có chướng ngại. Ðó là nhập bất nhị pháp môn”.
Bồ tát Thiện Ý nói : “Sanh tử, Niết bàn là hai. Nếu thấy được tánh sanh tử thì không có sanh tử, không buộc không mở, không sanh không diệt. Hiểu như thế là nhập bất nhị pháp môn”.
Bồ tát Nguyệt Thượng nói : “Tối, sáng là hai. Không tối, không sáng, thì không có hai. Vì sao? Như vào định, diệt thọ tưởng thì không có tối, không có sáng. Tất cả pháp tướng cũng như thế. Bình đẳng vào chỗ ấy là nhập bất nhị pháp môn”.
Bồ tát Châu Ðảnh Vương nói : “Chánh đạo, tà đạo là hai. Ở chánh đạo thì không phân biệt thế nào là tà, thế nào là chánh. Lìa hai món phân biệt, đó là nhập bất nhị pháp môn”.
Bồ tát Nhạo Thật nói : “Thực, không thực là hai. Thực thấy còn không thấy, huống là không thực thấy. Vì sao? Không phải mắt thịt mà thấy được, chỉ có mắt tuệ mới thấy được. Nhưng mắt tuệ không có thấy mà chỗ nào cũng thấy cả. Ðó là nhập bất nhị pháp môn” v.v...
Các Bồ tát nói như thế rồi, hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng : “Thế nào là Bồ tát nhập bất nhị pháp môn?”.
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói : “Như ý tôi, đối với tất cả pháp không nói, không rằng, không chỉ, không biết, xa lìa các vấn đáp. Ðó là nhập bất nhị pháp môn”.
Khi đó, Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi Duy Ma Cật : “Chúng tôi nói rồi, đến lượt Ngài cho biết thế nào là Bồ tát nhập bất nhị pháp môn”.
Duy Ma im lặng không nói. Ngài Văn Thù Sư Lợi khen rằng : “Hay thay, cho đến không có văn tự, ngữ ngôn. Ðó mới thật là nhập bất nhị pháp môn”.
Khi nói phẩm này, trong chúng có năm ngàn Bồ tát nhập bất nhị pháp môn, chứng vô sanh pháp nhẫn”
(4).
Trong thực tế nghiên cứu Kinh Duy Ma Cật, các văn bản cho thấy có nhiều cách hiểu khác nhau về đoạn sách trên. Có học giả cho rằng cả 42 vị bồ tát đều nói đúng và đều tu thành chánh quả. Có nhà nghiên cứu lại nhận thấy có đến 32 vị hiểu sai, tu tập sai pháp môn này và bị bệnh “tẩu hỏa nhập ma” (4). Tuy nhiên, hầu như ai cũng đều đồng ý về sự im lặng của Duy Ma và lời tán thưởng của Văn Thù: “Hay thay, cho đến không có văn tự, ngữ ngôn. Ðó mới thật là nhập bất nhị pháp môn” .
Thật sự, tinh yếu của đoạn kinh trên là gì?
Hầu hết, nếu không nói là tất cả, các vị bồ tát đều nêu ra một đôi hiện tượng, sự vật cụ thể để minh họa cho cặp phạm trù mâu thuẫn – thống nhất. Các vị bồ tát đều vượt lên thế giới sự vật, hiện tượng vốn tồn tại trong thế nhị nguyên đối đãi, biện biệt, để đạt tới nhất nguyên thống nhất trong tâm và thể hiện trong hành xử.
Diễn đạt theo ngôn từ của tư duy luận lí: Sự vật, hiện tượng trong thực tại của giới tự nhiên, xã hội khách thể vốn là mâu thuẫn; chúng phản ánh vào tâm trí chủ thể nhận thức, do đó chúng chia tách, đối chọi trong cảm giác, trong nhận thức, trong hành vi của mọi chủ thể, tạo ra óc phân biệt theo bậc thang giá trị thông thường, gây nên giằng xé nội tâm, sinh thói nịnh bợ hoặc lòng tị hiềm, ghen ghét, thù hận, thậm chí là bạo loạn, chiến tranh; nói chung là rơi vào khổ đau.
Thật vậy, xem lại sử sách, quan sát ngay trong thực tại nhãn tiền, ta thấy trên cõi trần ai ta bà này luôn tồn tại mâu thuẫn. Về tự nhiên: núi – sông; trời – đất; cây cao – cỏ thấp; chim trời – cá nước…v. v… Về xã hội: giàu – nghèo; xấu – đẹp; cao – lùn; da đen – da trắng; quyền lớn lại tham tàn – phận hèn bị chà đạp…v.v… Về tâm lí con người muôn thuở: tùy theo đối tượng mà phát sinh cảm xúc, thái độ như yêu, mê, thù, giận, sợ, nịnh, cao ngạo, vênh váo… Nói chung, có mâu thuẫn, có phân biệt là có khổ đau.
Nhưng dẫu sao, hình như tinh yếu của đoạn kinh vẫn chưa được sáng rõ? (5).
Ngẫm lại đoạn kinh ấy, phải chăng tinh yếu đã kết đọng mấy dòng cuối, đặc biệt là ở 3 chữ “mặc như lôi” (sự im lặng sấm sét). “Mặc như lôi” làm phá vỡ mọi kiến chấp thị phi, bỉ thử, đồng thời “mặc như lôi” cũng là một cách nói về tình trạng bất khả nghị bàn bằng ngôn ngữ nhị nguyên, mà chỉ trực nhận.
Hòa thượng Thích Trí Quảng, một thiền sư uyên thâm Thiền học, khác với nhiều thiền sư khác, không nghĩ trong 42 bồ tát, chỉ có 10 vị hiểu đúng, tu tập đúng:
“Ở đây chỉ đề cập đến người tu có kết quả, tiêu biểu bằng 42 Bồ tát. Tôi cũng chưa hiểu con số 42 này mang ý nghĩa gì, nhưng có cảm nghĩ đó là 42 kiểu mẫu tu đưa hành giả đến thế giới bất tử.
Phẩm này mở đầu với 42 vị Bồ tát trình bày trường hợp vào Phật đạo là vào cửa bất nhị của các Ngài. Mỗi vị vào cửa đạo khác nhau và 42 vị phát biểu về sự tu chứng đều bị Duy Ma xem như chưa đạt đến lý bất nhị hay quả vị Phật.
Ðối trước sự lầm lỗi của các Bồ tát thượng thủ này, chúng ta tự nghĩ thân phận của mình như thế nào mà bước vào cửa bất nhị được?”
(6).
Và khi bình giảng đoạn kinh trên, hòa thượng Thích Trí Quảng cho rằng ngôn ngữ của thế giới nhị nguyên trần gian ta bà này là bất lực trong diễn đạt nhưng không thể sử dụng một phương tiện truyền đạt nào khác:
“Cảnh giới bất nhị hay cảnh giới chân thật của Như Lai hoàn toàn nằm ngoài ngôn ngữ phàm phu, như chúng ta sẽ thấy Ngài Văn Thù trình bày ở phần sau. Tuy nhiên, muốn truyền thông tư tưởng giữa con người phàm phu chúng ta với nhau, không còn cách nào khác hơn là sử dụng ngôn từ.
Hơn nữa, chính tôi cũng chưa đạt tới trạng thái yên lặng tịch tĩnh có tác dụng làm mọi người giải thoát như Ngài Duy Ma. Vì thế, tôi phải dùng ngôn ngữ và ngôn ngữ của tôi chắc chắn tầm thường hơn sự biểu lộ của 42 Bồ tát. Các Ngài là thượng nhân đã thể nghiệm trình độ tu chứng ở mức độ cao, vượt ngoài sự hiểu biết hạn hẹp của chúng ta.
Vì vậy, phần diễn đạt vấn đề nhập cảnh giới bất nhị, một vấn đề trọng yếu của kinh Duy Ma, chúng tôi chỉ nhằm gợi ý để mỗi người tùy phước đức nhân duyên mà tự thâm nhập vào cảnh giới này”
(6).
Tuy nhiên, sau khi thâm nhập, ngẫm nghĩ và thoát khỏi ngôn từ phi luận lí, trở về với nhận thức hồn nhiên nhất, ta thấy mình sáng hơn trước đó rất nhiều.
Phải chăng, thật là giản đơn, khi nhận thức ra thế gian này luôn luôn tồn tại mâu thuẫn với những bậc thang giá trị, nói một cách khái quát là “có âm tất có dương”, nói cụ thể là có núi ắt có sông, có đại bàng ắt có giun đất, có sen ắt có bùn, có cứng ắt có mềm, có nóng ắt có lạnh, có giàu ắt có nghèo, có tư sản ắt có vô sản, có xấu ắt có đẹp, có da trắng ắt có da đen, có quyền chức ắt có hèn mọn, có nhà lầu xe hơi ắt có mái tranh chân đất, có yêu ắt có ghét, có ganh tị ắt có khoan dung, có độc ác ắt có nhân từ, có vân vân dương ắt có vân vân âm, như một tất yếu khách quan, tồn tại ngoài ý chí của con người, do đó thế gian này chất chứa khổ đau, thì cùng lúc với nhận thức đó, câu hỏi bật ra: con người phải làm gì?
Lục tổ Huệ Năng luận về pháp môn bất nhị trong Pháp bửu đàn kinh: “Đừng nói có sáng, có tối. Đừng hiểu rằng tu theo Đạo là lấy sáng trừ tối, lấy bồ đề phá phiền não. Là vì phiền não tức bồ đề, chẳng khác nhau, chẳng phải hai. Nếu lấy trí huệ phá phiền não, đó là kiến giải “có hai”…[…]. “Đối với sáng và tối, kẻ phàm thấy có hai, hàng đại thừa thấy là “bất nhị”. Tánh “bất nhị” ấy là thực tánh chân như. Thực tánh ấy bình đẳng ở muôn vật, bất cứ ở đâu, ở phàm phu không bớt, ở hiền thánh không thêm, ở phiền não không loạn, ở thiền định chẳng lắng. Cái thấy “bất nhị” ấy chẳng đoạn, chẳng thường, chẳng đi, chẳng đến, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài mà cũng chẳng ở giữa, chẳng sinh, chẳng diệt, như như chẳng động, thường trụ chẳng dời. Đó gọi là Đạo. Nếu muốn biết chỗ tâm yếu của Thiền thì lành dữ bất tất, đừng nghĩ đến, tự nhiên được ngộ nhập vào tánh thanh tịnh của Tâm, tuy vắng lặng linh minh mà diệu dụng đáp ứng với thế sự thì vô cùng vô tận” (7). Huệ Năng còn nói: “Đừng nghĩ đến thiện, đừng nghĩ đến ác; chính trong lúc đó mới hiện lên cái bản lai diện mục” (7).
Phải chăng đó chính là mệnh đề nổi tiếng của triết học Phương Tây: “Tự do là sự nhận thức được tất yếu”. Trong cõi trần gian ta bà (đúng hơn là địa ngục ta bà) này, mỗi bước chân đi, mỗi miếng ta ăn, mỗi hành vi ta thực hiện, hầu như đều phạm phải tội ác. Nếu nghĩ đến lẽ thiện ác, thì không ai còn dám sống nữa. Phải chấp nhận tất yếu tự nhiên. Không cách nào khác. Phải chấp nhận tất yếu xã hội, trong từng giai đoạn phát triển của từng xã hội, của cả nhân loại với những tiêu chí đạo đức quy ước. Cái quan trọng nhất là tâm ta phải hư vô.
Tâm ta rỗng không (dứt bỏ hết tham sân si) thì mọi bước chân đi, mọi miếng ta ăn, mọi hành vi ta thực hiện đều là thiện.
Tinh yếu của vấn đề là ở đó.
Có lẽ cần đi sâu hơn vào pháp môn bất nhị và phép biện chứng ở Đạo Đức kinh.
Đạo Đức kinh của Lão Tử đã bàn rất sâu và rất cô đọng về thế giới thực tại nhị nguyên tương đối (đối lập nhau): “ “Hữu vô tương sanh, nan dị tương hành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thinh tương hòa, tiền hậu tương tùy” (có không cùng sanh, khó dễ cùng thành, ngắn dài cùng sánh, cao thấp cùng chiều, giọng tiếng cùng họa, trước sau cùng theo); “Thiên hạ giai tri mĩ chi vi mĩ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ” (Thiên hạ đều biết tốt là tốt, thì đã có xấu rồi; đều biết lành là lành, thì đã có cái chẳng lành rồi)” (7).
Và Đạo Đức kinh không thể không bàn đến phép biện chứng của quy luật vận động khách quan: “Phản giả Đạo chi động” (quay lại, là cái động của Đạo); “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật; vạn vật phụ âm nhi bão dương; xung khí dĩ vi hòa” (Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật; trong vạn vật không có vật nào mà không cõng âm và bồng dương; nhân chỗ xung nhau mà hòa với nhau) (7).
Học giả Nguyễn Duy Cần bình chú thêm:
“Nhất đây là cái thể duy nhất của Đạo. Nhị là trỏ vào hai khía âm dương, tức hai nguyên lí mâu thuẫn nhưng bổ túc nhau đồng có ở trong mỗi vật, và vì thế có nói”trong vạn vật không vật nào không cõng âm bồng dương”. Giữa sự xô xát, xung đột nhau của hai nguyên lí mâu thuẫn ấy lại có một cái gì nắm giềng mối và làm cho nó phải sống chung và dung hòa với nhau mà không thủ tiêu nhau, đó là cái nguyên lí thứ ba, cái mà Lão Tử gọi là cái Dụng của Đạo. “Xung khí dĩ vi hòa”, tức là cái nguyên lí làm cho cái khí xung đột giữa hai nguyên lí mâu thuẫn kia điều hòa với nhau. Đến khi được cái số Ba đó, thì vạn vật mới thành hình, nên mới gọi là “Tam sinh vạn vật” (7).
“Tam [thế hệ thứ ba – ct.] sinh vạn vật”và vạn vật (thế hệ thứ tư trở đi) mang thành tố dương hoặc thành tố âm với sự tiếp biến mới, có thể theo quy luật phủ định của phủ định.
Nguyễn Duy Cần còn chú giải về phép biện chứng của Kinh Dịch: “Phàm đã nói đến quân bình là đã nói lên sự bình đẳng và đồng đẳng của hai nguyên lí âm và dương. Tinh hoa của Dịch lí gồm trong Thái đồ cực, trong đó luật “Âm trung hữu dương căn; dương trung hữu âm căn” có thể xem là căn bản của vạn biến…” (7).

Đúng là vạn vật đều chứa đựng âm (-)dương (+); trong âm có dương, trong dương có âm (trong đen có trắng, trong trắng có đen). Do đó, âm có thể chuyển hóa thành dương và dương có thể chuyển hóa thành âm trong sự vận động, tương tác của chúng. Một khi dương quá thịnh, lấn lướt cả âm, phá vỡ thế quân bình, thì chính ngay trong dương ấy âm đã sinh, để lập lại thế quân bình. Hơn thế nữa, thuộc tính âm hoặc dương là tùy ở tương quan. Một sự vật được xem là âm khi đối sánh với một vật khác, nhưng nó lại là dương khi đối sánh với một vật thứ ba khác nữa.
Lão học cũng từ thế giới Đạo (nhất nguyên duy vật (7), có thể hiểu theo Laplace [1749 – 1827] về thuyết kiến tạo Quả đất và vạn vật) đi đến thế giới thực tại nhị nguyên rồi trở về nhất nguyên duy tâm chủ quan (cái tâm thức của chủ thể nhận thức). Để dễ tiếp nhận hơn, có thể liên hệ đến biện chứng pháp Hégel và Marx. Từ Kinh Dịch, phép biện chứng của Đạo Đức Kinh dễ khiến chung ta thấy biện chứng pháp Hégel với ví dụ thường gặp: Tư sản sinh ra vô sản, và chính vô sản lại phủ định cả tư sản lẫn chính vô sản để hình thành nên cái mới, đó là cộng sản (vô sản làm chủ, quản lí tư bản nhà nước – công hữu).
Thiền tông là sự gặp gỡ giữa Phật giáo nguyên thủy và Lão học.
Trong tinh thần đó, phải chăng bộ kinh trọng yếu trong tàng thư kinh điển Phật giáo, là Kinh Duy Ma Cật, đã đề nghị một điều rất giản đơn bằng ngôn ngữ phá chấp phi luận lí: tu tập để đạt được sự xóa bỏ óc phân biệt các bậc giá trị trong thực tại, để thấy chúng sinh muôn loài đều có đồng đẳng về tự tánh (bản thể phổ quát của mỗi một sự vật, hiện tượng):
“Làm gì có đẳng cấp trong nước mắt cùng mặn
Làm gì có đẳng cấp trong máu cùng đỏ”

Và làm gì có đẳng cấp khi chúng sinh muôn loài đều có Phật tánh.
Con đường đi đến cứu cánh giải thoát khỏi khổ đau để đi đến thân tâm an lạc, xã hội hòa bình, đại đồng của Phật giáo không phải là con đường bạo lực cách mạng. Phật giáo chỉ đề xuất phương thức tu tâm, từ vị vua trên ngai vàng cho đến người cùng đinh trọng xã hội đều đều phải tu tập pháp môn bất nhị để tự thâm tâm mỗi người đều thành thật xóa bỏ óc phân biệt. Một vị vua quyền lực sinh sát ngất trời vẫn có thể đắp cùng chăn với người sa cơ thất thổ, và người sa cơ thất thổ cũng không vì hoàn cảnh cơ khổ của mình mà khúm núm, sợ sệt hoặc cảm thấy tủi thân khi đắp chung chăn với vị vua kia, bởi cả hai người đều là con người, mỗi người đều có Phật tánh, Phật tánh đều đồng đẳng.
Tâm ta rỗng không (dứt bỏ hết tham sân si, ngộ được Phật tánh tại tâm) thì mọi bước chân đi, mọi miếng ta ăn, mọi hành vi ta thực hiện đều là thiện.
Tinh yếu của vấn đề là ở đó.
Nhưng vẫn có người mỉa mai: Ảo tưởng điều hòa giai cấp!
Người chủ trương bạo lực cách mạng để cải tạo xã hội sẽ cho rằng: Ảo tưởng! “Tôn giáo là thuốc phiện đối với quần chúng” (Karl Marx). Câu nói ấy, Karl Marx nhắm đến loại tôn giáo nhất nguyên luận hữu thần như Thiên Chúa giáo với các hệ phái li khai như Chính thống giáo, Tin lành giáo, Anh giáo, kể cả Do Thái giáo, vốn chủ trương chung nhất một giáo điều cơ bản: sự cứu rỗi chỉ có sau khi chết với một Nước Chúa trên trời xanh mây trắng.
Phật giáo cũng có pháp môn Tịnh độ tông, cũng chủ trương niết bàn (thiên đường hay tây phương cực lạc), trần gian, địa ngục với luật nhân quả siêu hình (người thiện được hưởng an lạc ở niết bàn, kẻ ác phải bị trừng phạt địa ngục) như Thiên Chúa giáo (nhất nguyên luận hữu thần; “gieo gió gặt bão” – Cựu ước) với những đặc sắc riêng của Phật giáo tông phái ấy (luân hồi trên trần gian để được bù đắp hoặc phải trả nợ tiền kiếp…) (9). Tuy nhiên, Thiền tông với pháp môn bất nhị như một phương thức tu tập nhằm đạt cho bằng được sự toàn tâm toàn ý xóa bỏ lòng dạ phân biệt, óc phân biệt nhị nguyên đối đẳng (tương đối / âm dương cùng đối chọi nhau) trong suy nghĩ, cảm xúc và hành xử, không phải không có hiệu quả cho mỗi đạo hữu và từ đó cho toàn xã hội. Nói giản dị hơn: Mọi người đều dốc lòng tu tâm (tu dưỡng đạo đức) trong suốt cả quá trình sống (kiếp sống) của mình, thì toàn xã hội đều phải tốt đẹp.
Lịch sử thế giới mấy nghìn năm nay, nhất là trong giai đoạn cận hiện đại, khiến phần lớn nhân loại vốn bi quan lại càng bi quan. Hầu như ý chí cách mạng xã hội bằng bạo lực thể hiện trong tuyên ngôn, cương lĩnh đều thất bại. Thật vô vàn khó khăn và đổ quá nhiều máu với phương pháp cách mạng bao lực, chủ trương dùng bạo lực để xóa bỏ các hình thái xã hội có giai cấp nhằm xây dựng một xã hội vô giai cấp, cải tạo phương thức sản xuất kinh tế để cải tạo con người.
Lịch sử thế giới cũng cho thấy Thiên Chúa giáo thực chất là một công cụ tâm linh – chính trị trong tay đế quốc La Mã (Rome) cổ đại, trung đại và dần dần co cụm lại trong Tòa thánh Vatican nhưng vẫn vươn cánh tay đế quốc tâm linh – chính trị ra bắt nối với các loại thế lực thực dân, đế quốc cũ và mới trong giai đoạn cuối trung đại cho đến cận hiện đại.
Vấn đề đặt ra như thế và câu trả lời hầu như không cần thiết phải được viết ra.
Nếu phải viết ra, có lẽ mọi người đều viết rằng: Biện pháp tu tâm để cải tạo xã hội không phải không hữu hiệu. Có điều, sự đóng góp của Phật giáo trong tiến trình lịch sử, về phương diện chính yếu của tôn giáo này, cũng phải là tiệm tiến, “mưa lâu thấm đất”.
Thái tử Tất Đạt Đa đã thức ngộ chính trị không thể là phương cách hiệu quả để cải tạo con người, xã hội nên đã rời bỏ bệ vàng và ngai vàng sẽ được thừa kế trong tương lai để tìm ra con đường cứu độ con người và chúng sanh muôn loài. Thái tử Tất Đạt Đa đã trở thành Đức Phật Thích Ca, một khất sĩ vĩ đại của nhân loại.
“Tất Đạt Đa phải rời cung thành Phật
Bởi chỉ ngai vàng, đâu cứu nổi con người”
“Rời cung cấm, buồn sững sờ
Đời chia cao thấp, bậc bờ, khổ đau
Thương lệ mặn, máu một màu
Ăn mày lòng thiện, vá nhàu cà sa”.
(TXA.)


4

Có lẽ cần phải nhấn mạnh lại một lần nữa điều giản dị này:
Tâm ta rỗng không (dứt bỏ hết tham sân si, ngộ được Phật tánh tại tâm) thì mọi bước chân đi, mọi miếng ta ăn, mọi hành vi ta thực hiện đều là thiện.
Tinh yếu của vấn đề là ở đó.
Pháp môn bất nhị, theo thiển nghĩ, hiểu một cách giản dị nhưng đúng tinh yếu, thực chất là vậy. Tuy nhiên, bi kịch sẽ xảy ra nếu số lượng người tu tâm theo Phật giáo là số ít, trong khi đó, trên thế giới, số lượng người chủ trương cạnh tranh sinh tồn (thực chất là tham vọng tiền tài, quyền lực đế quốc chủ nghĩa) trong kinh tế, chính trị, xã hội và thậm chí bằng giáo đường, Kinh Thánh và hệ thống giáo phẩm (giáo hoàng, hồng y, giám mục, linh mục, nữ tu sĩ, sư huynh…). Các đạo hữu Phật giáo sẽ trở nên những “chàng ngốc” của Dostoievsky trong xã hội nhị nguyên đối đãi, bùng cháy dục vọng quyền lực, tiền tài, xác thịt và các tiện nghi vật chất. Người ta tin vào chân lí “cái thiện luôn luôn là cuối cùng sẽ chiến thắng”. Điều đó đúng, nhưng đúng trên cấp độ vĩ mô. Trong thực tế, có những thất bại cục bộ vô phương cứu vãn. Nói cách khác, cứ giả định Phật giáo cuối cùng sẽ chiến thắng trên toàn thế giới, nhưng trước mắt không xa và vĩnh viễn là các nước hưng thịnh đạo Phật hiện tại sẽ suy vong và bị xóa tên trên bản đồ thế giới. Theo giả định đó, các nước xem đạo Phật như một quốc giáo, từ chính quyền trung ương đến tầng lớp nhân dân thu nhập thấp nhất đều tu tập toàn tâm toàn ý với phương thức tu tâm là pháp môn bất nhị, liệu có thể tồn tại trước làn sóng thần đế quốc chủ nghĩa mới và Thiên Chúa giáo các hệ phái, nhất là Thiên Chúa giáo La Mã mà lịch sử cận hiện đại đã khải thị cho chúng ta bằng máu và nước mắt hơn một trăm năm, ít ra là từ 1858 (giữa thế kỉ XIX)?
Pháp môn bất nhị của Phật giáo phải thích ứng thế nào trước thực tại một bộ phận lớn nhân loại đang học tập, suy tư và làm việc (nghiên cứu khoa học tư nhiên, xã hội; ứng dụng, sáng tạo công nghệ tự nhiên, kĩ thuật; sản xuất, kinh doanh…) theo nền nếp tư duy luận lí học (lô-gích học), mà cốt lõi là mâu thuẫn luận duy vật (biện chứng pháp duy vật), mặc dù trong đời sống họ tin theo giáo điều duy tâm khách quan hữu thần hạng nặng?
Trong chính trị, thể chế đa đảng chính trị là một hình thái phổ biến trên toàn cầu. Ngay dưới các nước xã hội chủ nghĩa trước đây (ở Đông Âu, Việt Nam), thể chế đa đảng vẫn được xem là chính thống, mặc dù tác dụng và hiệu quả bị hạn chế ở mức thấp nhất.
Ở bài viết này, tôi đã không bàn đến hình nhi thượng với thế giới quan (vũ trụ quan) nhất nguyên duy tâm (duy tâm chủ quan, duy tâm khách quan) hay nhất nguyên duy vật hoặc nhị nguyên tâm – vật (“ý thức” và vật chất song hành, cùng lúc khởi sinh và cùng tồn tại, hiện hữu), nhưng lẽ nào không bàn đến sự thích ứng thế nào của pháp môn bất nhị trong thế tương khắc tương sinh của thể chế đa đảng chính trị hay ít ra là lưỡng đảng chính trị, nhất là trong tình hình Thiên Chúa giáo ở một số nước đã thành lập đảng chính trị hẳn hoi, như Đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo tại Đức, một chính đảng đang cạnh tranh quyết liệt với Đảng Dân chủ – xã hội Đức.
Ở khía cạnh ý thức chính trị từng cá nhân của nhiều đạo hữu Phật giáo hầu như tồn tại trong tâm thức họ mâu thuẫn này, nhất là Việt kiều ở hải ngoại. Việt kiều phải sống trong những đất nước Âu Mỹ, những xã hội thực tại với thế tương tác, tương tranh không phải không khốc liệt, họ phải làm thế nào để vừa bảo vệ Phật pháp, tu hành theo giáo pháp bất nhị, vừa phải chấp nhận tham dự vào luật lệ hiến định cộng hòa đa đảng như thế. Nhìn nhận đúng thực tế, bộ phận dân Việt trở thành Việt kiều cũng bởi họ không muốn sống mãi dưới một thể chế nhất nguyên chính trị vì họ nhận thức rằng, mẫu thuẫn là động lực phát triển mọi sự vật, hiện tượng (mọi thực thể), trong đó có mâu thuẫn đa chính đảng hay lưỡng chính đảng. Tuy vậy, cũng phải thấy Việt kiều Phật giáo cũng đã từng trưởng thành trong cơ chế dân chủ cộng hòa tư sản Mỹ – ngụy (tả đạo) trước 1975.
Phải chăng, đạo hữu Phật giáo cần phải hết sức minh bạch, thậm chí là rạch ròi trong nhận thức pháp môn bất nhị (nhất nguyên, phi biệt biện; tuyệt đối) và thực tại tự nhiên, xã hội vốn muôn thuở là nhị nguyên (mâu thuẫn đối đãi; tương đối nhau). Tu tập thế nào để giữ được nguyên lí bất biện biệt, và ứng xử thế nào để thích ứng với xã hội. Quan hệ biện chứng giữa tâm thức đạo đức và hành xử xã hội (sống, học tập và lao động, có khi phải chiến đấu) trong quá trình sống của đạo hữu Phật giáo như thượng tọa Thích Trí Quảng nêu ra trong bài viết (10) là rất hiển nhiên. Hiệu quả ấy hẳn không mâu thuẫn gì với ý thức minh bạch, rạch ròi, sáng suốt để thích ứng với xã hội hậu công nghiệp ở các nước theo chính thể nhị nguyên (đa nguyên) chính trị – kính tế – xã hội. Ít ra, pháp môn bất nhị cũng là một liệu pháp tâm lí học bổ ích (11).
Đó là suy nghĩ gắn liền với thực tại, và thực tại hải ngoại đối với người trong nước nhìn ra qua “cửa sổ” (window / s) màn hình vô tuyến (truyền hình, phim ảnh và mạng liên thông) chắc hẳn là rất phiến diện, chủ quan.
Có một điều chắc chắn là một vài Tạp chí điện tử (websites) Phật giáo ở hải ngoại đã nuôi dưỡng được ngọn lửa “đại hùng, đại lực, đại từ bi” hay “bi, trí, dũng” của truyền thống dân tộc Việt Nam và Phật giáo Việt Nam, có nhiều bài, nhiều số tạp chí tràn đầy sức mạnh tâm hồn và trí tuệ.
Lịch sử giai đoạn 1954 – 1975 và sau này đã và sẽ ghi nhận sự đóng góp lớn lao của thành phần thứ ba, của lực lượng thứ ba, trong đó vai trò quan trọng của Phật giáo là rất vẻ vang. Nói như vậy không có nghĩa là hoàn toàn xóa sạch sự đóng góp của những người thuộc hàng giáo phẩm, giáo dân Thiên Chúa giáo đã thực lòng nhân danh Jésus-phản-đế để chống lại thần học Vatican Lã Mã, trước khi trở về với cái đình, cái chùa Việt Nam. Cho dẫu hiện nay, có thể một bộ phận của Phật giáo Việt Nam ở hải ngoại còn lâm vào thế kẹt giữa những luồng sức ép, việc tiếp tục tinh thần của ngọn lửa đấu tranh nói trên và không phủ nhận quá khứ chống Diệm – Thiệu, thể hiện ở các sách báo, websites hải ngoại, là một niềm tự hào chính đáng. Niềm tự hào chính đáng còn được nhân lên trong quá trình tìm kiếm và xác lập một prajnapti (1) hiện thực, khoa học và tâm linh, thích ứng với thời đại mới (hiện đại hóa), đậm đà bản sắc dân tộc (cơ cấu văn hóa truyền thống là cái đình song song với cái chùa).
Bài viết về pháp môn bất nhị Phật giáo này cũng trong chiều hướng góp phần nhỏ bé vào tinh thần “đại hùng, đại lực, đại từ bi” hay “bi, trí, dũng” ấy, mà yếu tố trí – lực (trí – lực của hùng, từ bi hay trí – lực của dũng, bi) là trọng tâm nghị luận.

TP. HCM., lúc 17 : 38, ngày 01 & 02-10,
năm thứ 5 công nguyên Hòa Bình (2005 = HB5)

Trần Xuân An

Chú thích:

(1) Thích Nhất Hạnh, Đạo Phật đi vào cuộc đời, bản in lần thứ 2, Nxb. Lá Bối, Sài Gòn, 1966, tr. 83 – 85. Về câu nói trên của Đức Phật, xin đối chiếu: Masao Abe, Nhân quyền và tự do tôn giáo theo quan điểm cuả Phật giáo, Ðỗ Kim Thêm chuyển ngữ, Thư viện điện tử Phật giáo Hoa Sen, Diễn đàn Phật pháp, địa chỉ website:
http://www.thuvienhoasen.org/ddpp-nhanquyenphatgiao.htm
Xin trích nguyên văn một số đoạn như sau:
“Nói tóm lại, Phật Giáo không đặt vấn đề sự hiện hữu cuả một Thượng Ðế cá nhân, vấn đế mặc khải, vấn đề tiên tri hay cứu rỗi qua niềm tin. Phật Giáo hướng dẫn tìm hiểu về Quy Luật Duyên Khởi, tự kiến bản ngã, suy niệm và thoát bỏ mọi hệ lụy”.
[…]
“Trước một số câu hỏi siêu hình như thế giới là vĩnh cữu hay bị giới hạn trong thời gian hoặc là thế giới này hữu hạn hay vô hạn hoặc là có một đời sống cho các bậc Tuệ Giác sau khi chết không, câu trả lời quen thuộc của Ngài là sự im lặng. Sự im lặng của Ngài thường được giải thích là một hình thức của sự bất khả tri. Ðức Phật coi các câu hỏi siêu hình này là không liên quan và đi ngược lại khuynh hướng giải thoát của tôn giáo.
Chính Ðức Phật cũng đưa ra lập luận cương quyết để giải thích về sự từ chối trả lời này. Ðiều này được tìm thấy trong câu trả lời của Ðức Phật cho Ngài Malunkyapata được ghi lại trong kinh Maijjhima-Nikaya. Sau khi xác nhận đời sống đạo đức không tùy thuộc vào một giáo điều cho rằng thế gian này là vĩnh cửu hay hữu hạn, Ðức Phật còn nói thêm: “Này Malunkyaputta, giáo điều về sự vĩnh cửu hay hữu hạn của thế gian đưa ra còn đó, vấn đề tồn tại là: Sinh, Lão, Bịnh, Tử, Lo âu, Ðau khổ, Muộn phiền và Thất vọng mà Ta chỉ mong sao được chấm dứt nó trong cuộc sống hiện tiền. Các điều này không giúp ích được gì, nó cũng không phù hợp với những nguyên tắc chính của tôn giáo. Nó cũng không đưa tới sự từ bỏ dục vọng, thanh tịnh, đạt đạo và niết bàn. Ðó chính là lý do tại sao Ta không giải thích.”
(Edwin Arthur Burtt (Ed.), The Teachings of the Compassionate Buddha, New York, New America Library, 1955, p. 36).

(2) Thích Nhất Hạnh, sđd., bài “Đức Phật của thế kỉ chúng ta” , tr. 111 – 112.

(3) Muju, Góp nhặt cát đá, bản dịch tiếng Việt của Đỗ Đình Đồng, Nxb. (?), Sài Gòn, (?); bản in lần thứ ba, Xạ Thụy hiệu đính và đề tựa, Nxb. Đồng Nai tái bản, 1991, tr.11.

(4) Thượng tọa Thích Trí Quảng (dịch và giảng), Lược giải kinh Duy Ma, nhập bất nhỊ pháp môn, lược văn kinh, phẩm 9, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành PL. 2535 – 1999;
http://www.thuvienhoasen.org/luocgiaikinhduyma-09.htm .
Xem thêm: Nguyệt Khê thiền sư, Cội nguồn truyền thừa & phương pháp tu trì của Thiền tông, dịch giả: Thích Duy Lực, Từ Ân thiền đường, Anaheim, California Hoa Kỳ xuất bản, 1991 [PL. 2535];
http://www.thuvienhoasen.org/duyluc-coinguontruyenthua2-04.htm
Nguyên văn như sau:
“Hiểu lầm “Bất nhị pháp môn” thành bệnh:
“Pháp môn bất nhị” là nói Phật tánh tuyệt đối, chẳng có năng sở đối đãi là bất nhị, xưa kia trong hội Tỳ Da, Văn Thù bồ tát để ý chỉ bất nhị, khi ấy sở thuyết của ba mươi hai vị hiền triết đều sai, chỉ có Duy Ma Cật im lặng chẳng nói, Văn Thù bồ tát khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Đến chỗ chẳng có văn tự lời nói mới thật là nhập pháp môn bất nhị”. Nên biết tuyệt đối của Phật tánh chẳng phải văn tự lời nói có thể đến, nên nói ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt. Hiện nay các chùa chiền, trên cửa thường để bốn chữ “Bất nhị pháp môn”, bắt chước nhau từ lâu, Kinh nói: “Vô môn là pháp môn”, thì cửa chùa làm sao so bằng được!”
.
Xem thêm:
“Kinh này mang tên của Duy-ma-cật (s: vimalakīrti), một cư sĩ giàu có, sống cuộc đời thế tục nhưng vẫn đi trên con đường Bồ tát. Nhờ kinh này mà người ta có thể xem cư sĩ và tăng sĩ có một mục đích như nhau trên đường tiến đến giác ngộ. Quan niệm trọng yếu của kinh này là tính Không (s: śūnyatā) của tất cả các pháp. Trong tính Không này thì cả Hữu lẫn Vô đều được hợp nhất. Bất nhị là nền tảng của giáo lí trong kinh này thế nhưng – Bất nhị rất khó diễn bày. Ba mươi hai vị Bồ Tát (phẩm thứ 9) đều không trình bày nổi. Ngay cả Văn-thù Sư-lị (s: mañjuśrī) – hiện thân của trí huệ siêu việt – cũng không giải thích nổi bởi vì ngôn ngữ không thể diễn bày Pháp môn bất nhị này. Chỉ có Duy-ma-cật giải bày bằng sự im lặng – một sự im lặng sấm sét (mặc như lôi). Im lặng ở đây không phải là không hiểu, không diễn bày mà chính là ngôn ngữ tuyệt đỉnh, ngôn ngữ duy nhất có thể trình bày cái Bất khả tư nghị. Hành động của các Thánh nhân đều xuất phát từ pháp môn bất nhị này.
Kinh này minh họa cách sống của người Phật tử để nhắm đến giải thoát và cách áp dụng tri kiến về tính không trong cuộc sống hàng ngày, rất được hâm mộ trong Thiền tông”
.
(Website Thư viện Hoa Sen, mục từ “Duy-ma-cật sở thuyết kinh”:
http://www.daouyen.com/Data/Ph_D/D30.htm ).

(5) Xin mở một ngoặc đơn: Ở đây, không đề cập đến nhất nguyên luận duy vật hay nhất nguyên luận duy tâm (duy tâm chủ quan hay duy tâm khách quan), cũng không đề cập đến nhị nguyên luận tâm – vật, trên bình diện thế giới quan (vũ trụ quan), mặc dù pháp môn bất nhị của Phật giáo bao hàm cả vấn đề đó.
Khép lại ngoặc đơn, trở về với bình diện thực tại.

(6) Thượng tọa Thích Trí Quảng (dịch và giảng, Lược giải kinh Duy Ma, nhập bất nhỊ pháp môn, lược văn kinh, phẩm 9, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành PL. 2535 – 1999;
http://www.thuvienhoasen.org/luocgiaikinhduyma-09.htm .

(7) Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Lão Tử tinh hoa, Nxb. TP. HCM. tái bản, 1992, tr. 42 – 43.
Nguyễn Duy Cần cho rằng có thể hiểu khái niệm Đạo của Lão Tử theo hai phương diện hữu hoặc vô (sđd., tr. 35). Ông còn khẳng định: “Ta thấy rằng bàn về nguyên lai của vũ trụ, Lão chủ trương vô thần luận” (sđd., tr. 94).
Xem thêm: Lão Tử, Đạo Đức kinh, bản dịch và bình chú của Nguyễn Duy Cần, Nxb. Văn Học tái bản, 1991.

(8) Nguyễn Duy Cần, Tinh hoa Đạo học Phương Đông, Nxb. TP. HCM., 1992, tr. 139 – 140, 57, 127.

(9) Trong thực tế, Thiền học chỉ đáp ứng được nhu cầu tâm linh – trí tuệ của giới trí thức với não trạng khoa học. Tịnh độ tông phù hợp với đại chúng. Nếu chê bai, bài trừ Tịnh độ tông, sẽ dẫn đến sự hụt hẫng, trống vắng về lĩnh vực này trong số đông nhân dân, và do đó, các thứ “tả đạo” sẽ có điều kiện tràn đến, điền vào chỗ trống vắng ấy, lấp đầy chỗ hụt hẫng kia.

(10) Thượng tọa Thích Trí Quảng, bài đã dẫn. Trích nguyên văn: “Từ khởi đầu tu, chúng ta phân rõ thế giới nhị nguyên là hai phần tốt và xấu, Phật và chúng sanh. Như vậy, chúng ta có thân phàm, thân thánh, tâm phàm, tâm thánh.
Chúng ta đứng ở thế giới này hướng về thế giới thánh thiện. Vì thế, tuy có thân phàm, nhưng tâm chúng ta đã nằm trong thế giới an lành của chư Phật.
Gá tâm nơi thế giới Phật lâu ngày, hành giả trở thành dễ thương, vì quen tiếp xúc với thượng thiện nhân nên thân khổ mà tâm an lành. Phàm tâm đã rời bỏ phàm xác biến thành tâm thánh, trở thành Bồ tát nhân gian hay mẫu người thân phàm tâm thánh.
Từ tâm thánh an lành, chúng ta bắt tâm trở về thân đau khổ này. Lúc ấy, thân đau khổ đã được tâm cải tạo một phần. Vì vậy, chúng ta xả Thiền thì thân hiện hảo tướng, mắt sáng hơn, mặt vui hơn. Ðó là cách tu có kết quả, thân tâm đều thăng hoa.
Như vậy, trải qua quá trình tu, tâm phàm đã trở thành tâm thánh. Và tâm thánh hồi nhập lại thế giới Ta bà nằm trong thân phàm, tạo thành thế giới phàm thánh là một, tức thế giới bất nhị”
.

(11) (?),Phật giáo và tâm lý học hiện đại, dịch giả Thích Viên Lý , website Thư viện Hoa Sen,
http://www.thuvienhoasen.org/phatgiaovatamlyhochiendai-02.htm :
Trích nguyên văn:
“Động cơ của tâm lý học Phật giáo chủ yếu là sự phân tích những phương diện dẫn đến sự bất an, khẩn trương, căng thẳng, nóng nảy, lo lắng, bồn chồn và cảm thọ đau khổ v.v… của nhân loại nhằm đề ra pháp môn bất nhị để hướng dẫn muôn loài đạt đến con đường hạnh phúc, vì thế, động cơ nghiên cứu tâm lý học Phật giáo bao hàm sắc thái trị liệu. Đứng trên quan niệm của tây phương ngày nay để nhận xét thì chữ trị liệu nầy thông thường được dùng để chỉ cho sự chữa trị những người có tật bệnh tâm lý; Nhưng nếu lấy tâm lý học Phật giáo để nói, thì nó được dùng để chỉ cho sự giải trừ tất cả sự xung đột trên mặt tâm lý và sự bất an của nội tại. Kinh điển Phật giáo đã đề cập rất nhiều đến phương diện động cơ của tâm lý học” .

TXA.

______________________________________________

BÀI THỨ BẢY

Bài đã đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
số tháng 10-2005 và số tháng 11-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm ,
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
posted: 27.10.2005

Web Giao điểm tự ý thu hồi phần mở: "Vài lời của web Giao Điểm", vì thấy không cần thiết. Xin cáo lỗi củng bạn đọc! Web GĐ.. 10/26/2005 10:07:26PM

Thư cậy đăng!

Trần Xuân An
VÀI LỜI TRAO ĐỔI VỚI ÔNG NGUYỄN VĂN HÓA
(CHỦ BIÊN TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ GIAO ĐIỂM)


Đêm hôm qua, 25 tháng 10 HB5, tôi đã đọc bài Mở đầu của ông chủ biên Tạp chí điện tử Giao Điểm, một bài viết được lên mạng viễn thông trước khi ông cho đăng tải trọn bộ sách "Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886)" của tôi.
Bài viết của ông Nguyễn Văn Hóa (chủ biên Tạp chí điện tử Giao Điểm) là một bài Mở đầu rất công phu và chắc chắn là quá trình viết không phải không khó nhọc. Thật sự đó là một bài nghiên cứu phối hợp với những ý tưởng của một lời tựa cho một bộ sách.
Tuy nhiên, tôi nhận thấy, nhắc lại những điều xuyên tạc, bôi nhọ hoặc không xác thực của những người nghiên cứu sử như Phạm Văn Sơn, Thái Văn Kiểm, Nguyễn Văn Thọ (*), kể cả một đoạn, một câu do Nguyễn Đắc Xuân, Cao Huy Thuần, Trần Văn Giàu... viết (**), thật ra không có lợi gì cả, thậm chí kẻ xấu bụng có thể vin vào đó mà lợi dụng trong việc xuyên tạc, bôi nhọ. Hơn nữa, ông lại đặt vấn đề bằng cách lập phản đề: Đề cập đến một tác phẩm, "Mật mã Da Vinci", mà bản dịch tiếng Việt của nó hiện thời đang bán khá chạy (hay chạy nhất, "best-seller") nhưng rất tai tiếng. Ngoài ra, trong đó, về nội dung, có chi tiết đại để là Jésus Christ không chết trên cây thập giá mà chạy sang Pháp, sống chung đời vợ chồng với Mary Magdalene (Marie Madelaine, Madalena), sinh con đẻ cháu... Theo cảm thụ thông thường trước một chỉnh thể văn bản, trong nhận thức và tâm lí tiếp nhận của người đọc sẽ hình thành một trường liên tưởng và tổng hợp hóa, từ bất giác đến có ý thức, về những chi tiết, những trường đoạn chứa đựng trong chỉnh thể văn bản ấy. Điều này, với sự mẫn cảm nghề nghiệp, chính tác giả bài viết (ông chủ biên Nguyễn Văn Hóa) đã thể hiện rõ sự khẳng định lại cuốn "Nguyễn Văn Tường [1824 – 1886], 'những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được' " của tôi, vốn đã được ông cho đăng trên web Giao Điểm tháng 5-2005 (1). Tuy vậy, có lẽ sự liên tưởng, nối kết giữa phản đề (Jésus trong “Mật mã Da Vinci”) với chính đề (Nguyễn Văn Tường trong bộ sách đang được ông giới thiệu), sự tổng hợp hóa các chi tiết, trường đoạn trong bài viết, thường diễn ra trong quá trình tiếp nhận ở người đọc, như đã trình bày, vẫn gây thêm cho người đọc những hoài nghi về một nhân vật lịch sử vốn đã bị xuyên tạc, bôi nhọ và vốn chịu nhiều sự hồ nghi thiếu cơ sở từ nhiều thập niên qua, nếu chính đề không được khẳng định mạnh mẽ. Phải chăng đây là một thủ pháp gợi mở để mời gọi người đọc đến với tác phẩm?
Tôi viết bộ sách "Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886)" cũng như những cuốn khảo luận, biên soạn về đề tài này để khẳng định Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) là người yêu nước, chống Pháp với phương châm "chủ chiến là tiên quyết và hậu quyết, hoà là cơ nghi", nhằm xoá tan những xuyên tạc, bôi nhọ, hoài nghi do các người nghiên cứu sử vô tình và kẻ thù lắm ác ý của dân tộc Việt Nam ta và của Nguyễn Văn Tường đã từng gây ra trên sách báo.
Tất nhiên tôi vẫn rất thích phương châm nghiên cứu khoa học "KHÔNG ĐẶT VẤN ĐỀ [không hoài nghi khoa học], SẼ KHÔNG BAO GIỜ CÓ KHOA HỌC". Tôi muốn nói đến phương pháp hoài nghi do yêu cầu khoa học, chứ không phải tâm thức hồ nghi do mù quáng, kém hiểu biết hay hoài nghi chủ nghĩa, lấy hoài nghi làm cứu cánh, gieo rắc sự hoang mang nhằm mục đích lung lạc.
Tuy nhiên, Nguyễn Văn Tường khác với Hai Bà Trưng, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, khác với Trương [Công] Định, Nguyễn Tri Phương ... ở chỗ là Nguyễn Văn Tường vốn là một nhân vật lịch sử đã chịu nhiều oan khuất cần làm sáng tỏ, còn các nhân vật lịch sử kia vốn đã được khẳng định từ lâu, không ai có thể nghi ngờ điều gì. Do đó, phải vận dụng phương châm nghiên cứu khoa học trên một cách khác nhau.
Jésus Christ cũng thuộc loại nhân vật lịch sử, nhưng có đến 1.500.000.000 tín đồ Ki-tô (gồm Thiên Chúa giáo, Chính thống giáo, Tin lành giáo, Anh giáo) khẳng định, tôn thờ hai ngàn năm nay, do đó đặt ngược vấn đề cũng rất nên, và còn có thể nói là rất cần thiết (cần thiết phải giải hoặc về những mê tín, giáo điều mà các giáo hội Ki-tô đã bao phủ quanh nhân vật Jésus phàm trần này).
Trong khi đó, so sánh với các nhân vật lịch sử nêu trên, Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) lại ở trường hợp ngược lại (chưa được minh oan), cho nên, cần khẳng định dứt khoát với những cứ liệu đã được giám định khoa học: Nguyễn Văn Tường là người yêu nước, chống Pháp với phương châm "chủ chiến là tiên quyết và hậu quyết, còn hoà là cơ nghi"; Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) đã chết tại Tahiti vào ngày 30-7-1886 với tinh thần, thái độ chính trị nhất quán như thế; di thể ông được đưa về nước an táng lại tại quê nhà, hiện nay còn phần mộ.
Nếu bài viết Mở đầu của ông chủ biên Tạp chí điện tử Giao Điểm khẳng định kết luận trên về Nguyễn Văn Tường (phủ định “phần nhập đề bằng phản đề” – tức là phản chứng) một cách mạnh mẽ ở đoạn kết, chắc chắn người viết bộ sách là tôi sẽ rất yên tâm, nhưng ông vẫn cố ý sử dụng thủ pháp treo vấn đề, vấn đề dường như còn lửng lơ như thế, để mời gọi người đọc khám phá bộ sách, đồng thời để bộ sách tự nói lên điều mà tác giả đã quả quyết minh chứng bằng khảo cứu tư liệu lịch sử và diễn đạt khảo luận ấy qua ngôn ngữ truyện kí.
Thật ra, tôi ý thức tôi viết bài phản hồi này theo tâm lí của một tác giả lo sợ tác phẩm – công trình khảo cứu tư liệu lịch sử của mình bị người đọc cảm nhận ngoài ý muốn. Và điều mọi người đều nhận thấy là không một vị chủ biên nào quan tâm hơn đến đề tài lịch sử giai đoạn nước ta phải đương đầu với thực dân Phương Tây và “tả đạo” Thiên Chúa giáo này như ông Nguyễn Văn Hóa. Ông đã rất ưu ái trong việc đăng tải những khảo cứu, biên soạn và truyện – sử kí về Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) của tôi cũng vì mối quan tâm đó trong sự đồng cảm sâu sắc. Tạp chí điện tử Giao Điểm cũng là một diễn đàn luôn nêu cao tinh thần dân chủ trong học thuật, thể hiện ngay cả việc chủ biên (tổng biên tập) sẵn sàng đối thoại với những tác giả cộng tác viên. Đây phải chăng là một trường hợp tiêu biểu cho tinh thần ấy?
Mong bộ sách sẽ được đăng tải trọn vẹn. Mong đề tài trọng tâm của bộ sách sẽ được nghiên cứu, thảo luận khoa học; kết luận của tác giả về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) đúng như sự thật lịch sử đã xảy ra, sẽ được giới nghiên cứu sử học, các nhà văn và đông đảo người đọc đồng thuận, nhất trí.

Tp. HCM., ngày 26 tháng 10,
năm thứ năm Công nguyên Hòa Bình (HB5)

Trần Xuân An

tranxuanan_vn@yahoo.com ,
tranxuanan_tphcm@yahoo.com.vn


Chú thích:

(*) Đính chính: Phạm Văn Sơn chép lại mẩu đối thoại giữa Nguyễn Văn Tường và Philastre lúc nghe tin F. Garnier đã bị quân Cờ Đen phục kích, giết chết, trong Quôc triều toát yếu (Quốc sử quán triều Nguyễn, bản tiếng Việt) và trong Đại Nam thực lục, chính biên (QSQTN., bản dịch Viện Sử học VN., Hà Nội) cũng như trong Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim. Lời khen Nguyễn Văn Tường là nhà ngoại giao bình tĩnh, khôn khéo, tài giỏi là của Trần Trọng Kim và Nguyễn Thiệu Lâu (Quốc sử tạp lục), chứ không phải của Phạm Văn Sơn. Phạm Văn Sơn chỉ lặp lại. (13-11-2005, TXA.)

(**) Đính chính: Nguyễn Văn Tường vẫn luôn luôn đứng về phía các nhà nho, và vẫn thực hiện nhiệm vụ hòa giải cuộc “lương – giáo phục thù” ở Bắc Kỳ vào cuối năm 1873, bước sang đầu năm 1974, do triều đình giao phó. Chỉ ở cuộc hòa giải “lương – giáo phục thù” ấy tại Nghệ - Tĩnh, 1974, Nguyễn Văn Tường mới thực thi theo phương châm “ngọc đá đều cháy” (trấn áp cả Trần Tấn, Đặng Như Mai [NGỌC] và “tả đạo” Thiên Chúa giáo [ĐÁ]). Tuy nhiên, ở mặt trận đó, không chỉ Nguyễn Văn Tường (đường thủy), mà cả Tôn Thất Thuyết (đường bộ), và chủ yếu là Tôn Thất Thuyết trực tiếp hành quân, trấn áp. Xin hiểu câu trích dẫn của TS. Cao Huy Thuần như trên. (13-11-2005, TXA.).

(1) Xin bấm vào đây, để xem: http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm

TXA.

_____________________________________________________


BÀI THỨ TÁM (thư trao đổi)

Đã đăng tải trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
số tháng 11 năm 2005
posted: 07.11.2005
Xin xem thêm tiểu thuyết MÙA HÈ BÊN SÔNG
(đã đuợc đăng tải trên Web GIAO ĐIỂM
[ http: //www.giaodiem.com ],
số tháng 6 năm 2005)
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm


THƯ TRAO ĐỔI VỀ MỘT THỜI KÌ LỊCH SỬ, 1930 – 1975
Nguyễn Mạnh Quang & Trần Xuân An



. Nguyên nhân của cuộc trao đổi:

Anh Trần xuân An, một nhà nghiên cứu sử học, tác giả của một số sách về lịch sử, truyện ký đã được xuất bản trong nước, bắt đầu cộng tác với website GĐ kể từ tháng 5/2005. Do sự quan hệ giữa người cộng tác và nhóm chủ trương, anh Trần xuân An vẫn thường xuyên liên lạc với GĐ qua điện thư. Giữa tháng 10/2005, nhân đọc được một bài báo trên mạng lưới “Đông Dương Thời Báo” [dongduongthoibao.net] có tựa đề “Mạn đàm với Nguyễn Giang, Bùi Tín và Nguyễn xuân Phong” của tác giả Tâm Đạt Thông Trần, có một đoạn viết liên quan đến Giáo sư Nguyễn văn Trung, đã gây cho anh Trần xuân An thắc mắc về tính xác thực của nguồn tin; do đó anh đã điện thư và trao đổi với người phụ trách web GĐ và Giáo sư Nguyễn mạnh Quang.
Nội dung của đoạn văn gây cho anh Trần xuân An sự thắc mắc, xin trích lại dưới đây (nguyên văn) :
[ Tại Việt Nam, nhân ngày tưởng niệm 40 năm ngày diệt vong dòng họ Ngô Đình, người tự nhận là sử gia Trần Quốc Vượng * qua Mỹ giao lưu Văn Hóa Việt Mỹ lợi dụng câu nói có tính cách ngọai giao của Hồ chí Minh “ông Diệm là người yêu nước” ca tụng Ngô Đình Diệm là người yêu nước và tờ Tuổi Trẻ. Trần Quốc Vượng và 13 số báo liên tiếp tờ Tuổi Trẻ là bằng chứng nữa về âm mưu trí thức vận của số người Công giáo phản động dùng gậy ông đập lưng ông như lời giáo sư Nguyễn Văn Trung -cựu Khoa trưởng Đại học Văn Khoa Sàigon và Quân ủy Phong Trào Giáo Dân là đảng Cần Lao Công Giáo tại Mỹ - đã công khai thú nhận với vợ chồng giáo sư Nguyễn Mạnh Quang (tác giả hai bộ sách Thực Chất Giáo Hội La Mã và Việt Nam Đệ Nhất Cọng Hòa Tòan Thư, 1954-1963) : “Tôi ( Nguyễn Văn Trung ) có nhiệm vụ móc nối các tướng tá Việt Cộng hưu trí, báo chí, văn hóa tư tưởng, sử gia .v.v…gây phong trào chống Nhà nước và đảng CSVN và viết bài ca tụng Ngô Đình Diệm, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trường Tộ, Alexandre De Rhodes…, nhất là ngăn chận không cho phổ biến những gì bất lợi cho Công Giáo và dòng họ Ngô Đình trên báo chí và giáo dục tại Việt Nam. Cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cọng Hòa Toàn Thư, 1954-1963 của ông chẳng có giá trị gì” ]
- Xin ghi lại đường nối kết của bài viết:
http://dongduongthoibao.net/view.php?storyid=159
Đồng thời anh Trần xuân An cũng có gởi một thư chung ngày 24/10/05, trong đó có nhân vật được đề cập trong thư là tác giả Nguyễn mạnh Quang. Do đó có sự hồi đáp qua lại giữa hai phía, khởi đầu cho cuộc trao đổi mang tính sử học trong tinh thần cởi mở và thân thiện. Giao điểm xin đăng lại bức thư này (với sự đồng ý của các đương sự, riêng các nhân vật không tham gia cuộc trao đổi nhưng có tên trong thư, chúng tôi xin viết tắt - Gđ. ):


- Thư số 1: Người gửi: Trần xuân An:

Việt Nam, TP. HCM., lúc 7:38, buổi sáng ngày 24/10/2005

K/G: Chủ biên Tạp chí điện tử GĐ
K/G: Nhà nghiên cứu TCN.
K/G: Nhà nghiên cứu Nguyễn mạnh Quang
K/G: Nhà nghiên cứu BK.
K/G: Ông/ Bà email: dongba72@yahoo.com

Thưa anh NVH., ông TCN.,
Thưa ông Nguyễn mạnh Quang, ông/ bà “dongba” và anh BK.,
Đây là lá thư đầu tiên, tôi đường đột đồng kính gởi đến ông TCN., nên xin tự giới thiệu, tôi là Trần xuân An, từ tháng 5/2005 đến nay, thường có sách va bài báo được đăng tải trên web Giao Điểm. Đây cũng là lá thư tôi kính gởi đến quý anh, quý ông/ bà và anh BK., một nhà nghiên cứu tôi đã có vinh hạnh được tiếp chuyện trong dịp anh về VN thăm quê hương ruột thịt, bạn bè.
Tôi đã được đọc trong số web Giao Điểm tháng 10/2005 các bài viết của ông TCN. và ông Nguyễn Mạnh Quang (nhà nghiên cứu). Sau đó, tôi có viết một bài kí bút danh Trần Ngôn Sử, được anh NVH. cho đăng tải trên web Giao Điểm cùng số tháng 10/2005 này. Thật ra, đó là những vấn đề tôi đau đáu, canh cánh trong lòng bao nhiêu năm nay, và không nguôi trăn trở, nhưng đồng thời cũng là những vấn đề cần thưa gửi, trao đổi với ông TCN. và ông Nguyễn Mạnh Quang [hai tác giả đã đăng hai loạt bài trên web Giao Điểm số thág 10/2005 nói trên.]
May mắn là tôi nhận được thư của ông Nguyễn Mạnh Quang, trả lời thay anh NVH., về ông Nguyễn văn Trung [GS.] do ông [hay bà] dongba [dongba72@yahoo…] nêu ra trong thư không niêm giửi chung cho nhiều người. Nhờ đó, tôi mạnh dạn trình bày vấn đề (không chỉ là vấn đề GS. Nguyễn Văn Trung) với nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Quang như sau:
“Thật tâm tôi muốn được đọc trên web Giao Điểm những bài viết của ông, của ông TCN. về đề tài ‘lí giải nguyên nhân nào khiến ông và một bộ phận người Việt rất lớn không tham gia Việt Minh, Việt Cộng (Cộng sản VN)’. Thế hệ của ông cũng là thế hệ của cha anh tôi , vốn là chứng nhân và đồng thời là lớp người trực tiếp can dự vào giai đoạn lịch sử 1930 – 1975 [có thể kể đến 1989]. Tôi đã đọc loạt bài của ông TCN và của ông [nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Quang] trên web Giao Điểm tháng 10/2005, và nhiều tác giả khác nữa [như Vũ ngự Chiêu trên web Hợp Lưu, số gần đây nhất] nhưng, thú thật, tôi thấy hình như vẫn còn thiên lệch về phía “tả” [phía Việt Minh, Việt Cộng] hoặc phía hữu, hoặc có chỗ “tả”, chỗ “hữu”.
Thưa ông Nguyễn mạnh Quang,
Nhà nghiên cứu, nhà văn, thuộc giới lập ngôn, lấy trước tác của mình làm mục đích cuối cùng [phương tiện là sách báo, cứu cánh cũng là sách báo]. Kính mong ông cũng như các nhà báo, nhà văn, nhà nghiên cứu VN. ở hải ngoại viết về giai đoạn ấy những cuốn sách, bài báo với thể loại hồi kí hoặc bằng thể loại khác [nghiên cứu, sáng tác, mà nghiên cứu là có giá trị sử học nhất], những chú tâm đến đề tài nói trên, một cách công bằng, toàn diện, chân thực, khoa học. Quan trọng nhất là đăng trên web Giao Điểm và ở các website khác. Thế hệ chúng tôi và hậu thế mai sau sẽ biết ơn ông và những nhà cầm bút như vậy. Sau này, lớp chứng nhân lịch sử [1930 – 1975] đó già nua rồi qua đời hết thì không còn ai có thể thay thế đuợc để làm sứ mạng ấy. Kính mong và cám ơn trước”
.
Trên đây là hai đoạn trong thư tôi đã kính gửi anh NVH., anh BK., ông Nguyễn mạnh Quang. Lúc này, tôi lại kính gửi đến nhà nghiên cứu TCN, cũng với ý nguyện như trên. Xin phép đuợc nhấn mạnh lại: lí giải nguyên nhân nào khiến ông và một bộ phận người Việt rất lớn không tham gia Việt Minh, Việt Cộng (Cộng sản VN) . Tôi nghĩ rằng, quý ông và quý anh ở hải ngoại có nhiều điều kiện, quan trọng nhất là điều kiện tự do, để có thể viết một cách trung thực, khoa học nhất, với mục đích góp phần giải tỏa những bức xúc về lịch sử, bức xúc về văn hóa giúp những người trong nước. Trong những cuốn sách, bài báo của tôi, tôi đã xoáy sâu vào những vấn nạn ấy, nhưng chỉ trong giới hạn của một nguời đã, đang và vẫn sẽ sinh sống, cầm bút ở trong nước Việt Nam của chúng ta.
Thưa anh NVH., anh BK., ông [hoặc bà] dongba và hai ông TCN., Nguyễn mạnh Quang,
Tôi nghĩ rằng đó là vấn đề lớn của thời đại chúng ta [gồm vài ba thế hệ]. Đó hoàn toàn không phải là một câu hỏi cắc cớ và vô lễ.
Kính mong.
Kính chúc quý anh và quý ông vui khỏe, tình nghĩa Giao Điểm mãi mãi thắm thiết.
Trân trọng.
Kính thư
TXA.
[Dưới đây là những emails [đương nhiên là không niêm] của ông Nguyễn mạnh Quang & của tôi. Xin gửi đính kèm. Kính mong thư này được gửi đến nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu và nhà báo, nhà giáo ở hải ngoại.]

- Thư số 2: Thư hồi đáp của Nguyễn mạnh Quang:

Hoa Kỳ , đầu tháng 11 năm 2005

Anh Trần Xuân An thân mến,

Thư của anh gửi cho một vài anh em chúng tôi từ ngày 24/10/05 mà nay tôi mới hồi âm được. Kể ra hơi chậm, xin anh thông cảm.Lý do tôi mắc bận viết bài gửi đăng tháng 11/2005. Bây giờ mới có thể hồi âm cho anh đây.
Theo tôi nghĩ, trong lá thư viết cho mấy người chúng tôi, anh nêu lên 3 vấn đề:
1.- Phương pháp sử,
2.- Tả và Hữu (Leftist and Rightist)
3.- Tại sao một bộ phận người Việt rất lớn không tham gia Mặt Trận Việt Minh.
Tôi xin trình bày với anh (theo quan điểm của tôi) từng điểm một trên đây.

I.- Về Phương Pháp Sử: Cá nhân tôi, với kinh nghiệm trong nghề dạy sử từ 1964 liên tục cho đến năm 1998, tôi đã bắt chước các bậc đàn anh trong việc biên soạn sách sử như sau:

"Người viết sử còn phải dấn thân hòa mình vào đại khối nhân dân bị trị để tìm hiểu những nguyện vọng và nỗi thống khổ của họ. Có như vậy thì mới có thể nói lên được sự trung thực về đời sống của nhân dân và thực trạng xã hội ở trong tác phẩm của mình. Sử gia Ruth Pelzda viết: "Người viết sử phải đọc nhiều sách sử, báo chí cùng các tài liệu lịch sử khác cũng như phải tìm hiểu nhiều hình ảnh và các dụng cụ hay đồ vật khác. Tất cả những tài liệu này giống như những mảnh vụn dùng làm dữ kiện cho việc tìm ra những lời giải đáp cho một ô đố chữ. Người viết sử phải thâu thập càng nhiều dữ kiện càng tốt để rồi cố gắng sắp xếp những dữ kiện đó thành một câu chuyện về lịch sử của mình." (“People who write about history study all these things. They read books, letters, newspapers, magazines, and other written things. They look at photographs and paintings, and they study old objects. All of these things are like pieces of a puzzle. History writers gather as much information as they can find. Then they try to fit all these pieces together into a story.")

II.- Về quan niệm “Tả” và “Hữu”, theo tôi biết, quan niệm này mới có từ thời Cách Mạng Pháp 1789. Khởi đầu, những người theo phe "Tả" có chủ trương chống lại vương quyền và cá nhân vua Louis XVI và nếu cần, phải dùng biện pháp mạnh đối với nhà vua và để huỷ bỏ chế độ đạo phiệt Da-tô lỗi thời này. Những người theo phe "Hữu" là những người muốn nhẹ tay đối với nhà vua và vương quyền hoặc là thành lập chế độ quân chủ lập hiến với một số đặc quyền dành cho vương quyền. Nhưng rồi nhà vua âm mưu cùng với nhiều người trong thành phần hai giới quý tộc, tu sĩ và tín đồ Da tô, phản bội nước Pháp, âm mưu liên kết với triều đình nước Áo với ý đồ rước con voi Áo về giầy mà tổ người Gaulois. Vì thế cho nên kể từ ngày 10/8/1792 trở về sau, phe Tả thắng thế cương quyết loại bỏ nhà vua và vương quyền để thành lập chế độ Cộng Hòa. Sau này, ý nghĩa của “Tả” và “Hữu” chuyển sang một nghĩa hơi khác. Phe "Tả" là những người có tinh thần muốn san bằng bất công xã hội, tranh đấu cho quyền lợi của đại khối nhân dân bị trị, nhất là những người thuộc các thành phần lao động nghèo khổ. Phe "Hữu" là phe bảo thủ (conservative) muốn duy trì, bảo vệ những đặc quyền đặc lợi và cái thế “ăn trên ngồi trước”, đặc biệt là quyền lực và sự giầu có của Giáo Hội La Mã. Nên nhớ là Giáo Hội La Mã là một thế lực giầu có số một ở Âu Châu trong thời bấy giờ:

“Giáo Hội tự định nghĩa mình là "Một Mầu Nhiệm", tự gọi mình là "Hiền Thê của Thiên Chúa Làm Người"...Nhưng tài sản của Giáo Hội trước thời cải cách Luther – Erasmus, tại Đức là 1/5 cả nước, tại Pháp là 1/7 cả nước, tại Tây Ban Nha là 1/6 cả nước, tại Ý là 1/4 cả nước... Đó là quyền lực của mammon (mamona) mà Đức Giêsu Kitô giảng dạy trong Tin Mừng: "Người là tôi tớ cho mamon (của cải) vào nước Trời khó hơn lạc đà chui qua lỗ chôn kim", thế mà "hiền thê của Đức Kitô" liên tiếp trong mười mấy thế kỷ giầu nhất thiên hạ Đông Tây." (Phan Đình Diệm, "Tâm Thư Chia Xẻ Cảm Nghiệm với Linh Mục Trong và Ngoài Nước VN", Tanvienkitohoc.com (19/9/2000)
Vì giầu có như vậy, Giáo Hội cần phải có những tu sĩ và tín đồ cuồng tín làm lực lượng nòng cốt để bảo vệ khối tài sản vĩ đại này của Giáo Hội. Chính vì thế mà tín đồ Da-tô ở quốc gia nào cũng trở thành những người Bảo Thủ (thuộc về phe Hữu). Tình trạng này khiến cho đại khối nhân dân bị tri phải lâm vào tình trạng nghèo đói và thù ghét Giáo Hội và các tu sĩ Da-tô. Họ gọi bọn tu sĩ Da-tô “là lũ quạ đen” (les corbeaux noirs), và văn hào Voltaire gọi Giáo Hội La Mã là “cái tôn giáo ác ôn”.
Ý niệm về "Tả" và "Hữu" có từ đó, và chỉ nên áp dụng ở Âu Châu và Bắc Mỹ mới đúng. Đại khái, những người muốn duy trì chính sách cai trị theo truyền thống đã có từ trước gọi là "phe hữu" hay “bảo thủ” (conservative), và những người có khuynh hướng cải cách là "phe tả" hay cấp tiến (radical) hoặc tự do (liberal).
Với ý nghĩa lịch sử như thế, ở trường hợp ở Việt Nam, danh từ “bảo thủ” có thể dùng cho những người muốn duy trì chính sách cai trị theo truyền thống đã có từ trước như chính quyền đương thời còn gọi là "tả khuynh", và danh từ “cấp tiến” có thể dùng cho những người có khuynh hướng cải cách cấp tiến giống như Hoa Kỳ và Âu Châu hiện nay, còn gọi là "hữu khuynh".
Trong giai đọan 1858-1975, Miền Nam Việt Nam liên tục nằm dưới ách thống trị của đế quốc xâm lược Vatican (khi thì Vatican liên minh với Pháp (1858-1954) khi thì Vatican liên minh với Mỹ (1954-1975)). Vì vậy mà nhân dân ta phải lao đầu vào cuộc chiến giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước chống lại Vatican và bọn người phi dân tộc .
Chúng ta biết rằng Giáo Hội La Mã hay Vatican và Pháp là hai đế quốc xâm lăng cướp nước như lịch sử đã chứng minh. Một số tín đồ Da-tô cuồng tín và bọn quan lại trong thời Pháp thuộc, cũng như những người Việt được hưởng những đặc quyền đặc lợi trong chính quyền miền Nam trong những năm 1954-1975 đều là những người hoặc là làm tay sai cho Vatican, hoặc cho Pháp, hoặc cho cả Vatican và Pháp, và sau đó lại làm tay sai cho Mỹ nữa. Nếu không chịu làm tay sai cho ba thế lực này (đặc biệt là Vatican và Pháp) thì họ đã bị loại ra khỏi chính quyền miền Nam bằng bất cứ giá nào. Như vậy, ta có thể nói những người này là những thành phần phản dân tộc, hay nôm na là Việt gian.
Trong khi đó, đại khối nhân dân bị trị và những thành phần chiến đấu chống lại Liên Minh Thánh "Pháp – Vatican" xâm lược trong thời kỳ 1858-1954 và chiến đấu chống lại Liên Minh Thánh "Mỹ - Vatican" trong những năm 1954-1975 là những người chiến đấu cho quyền lợi tối thượng của dân tộc.
Như vậy, ở Việt Nam chúng ta chỉ nên gọi những người có tinh thần dân tộc và những người phi dân tộc hay phản dân tộc mà thôi. Danh từ "Tả" và " Hữu" chỉ dành để nói đến những khuynh hướng trong chính quyền mới đúng.

III.- Tại sao môt bộ phận lớn không tham gia Mặt Trận Việt Minh ?. Đây là vấn đề phức tạp, cần phải hiểu xã hội Việt Nam trong thời Pháp thuộc, tình hình chính trị, và những ngày tháng lịch sử trong những năm 1945 cho đến 1954, thì mới có thể nhìn thấy rõ vấn đề.

A.- Xã hội Việt Nam trong thời Pháp thuộc vào thời điểm 1945, chúng ta có:
1.- Gần hai triệu tín đồ Da-tô (thành phần nòng cốt của Liên Minh Thánh Pháp – Vatican)
2.- Nhóm quan lại trong bộ máy cai trị của chính quyền bảo hộ Pháp - Vatican
3.- Nhóm phú hào trong nông thôn,
4.- Thành phần phú thương và tiểu tư sản ở trong các thành phố .
5.- Vào khoảng 185.975 công nhân vào năm 1938 (Nguyễn Thế Anh, Việt Nam Thời Pháp Đô Hộ (Sàigòn: Lửa Thiêng, 1970) tr. 256)
6.- Hơn 90% nông dân ở trong các làng quê

Phần lớn những người thuộc các thành phần 1, và 2 không theo Mặt Trận Việt Minh vì bản chất vong bản (tín đồ cuồng tín Da-tô “thà mất Chúa, chứ không thà mất nước” ). Các thành phần 3, và 4 vì quyền lợi vị kỷ, cá nhân và gia đình đặt trên quyền lợi của dân tộc.
Những người thuộc thành phần số 4 hơi phức tạp. Có nhiều người có dịp đã gia nhập Mặt Trận Việt Minh một thời gian, nhưng không chịu được những sự khó khăn gian khổ và cực nhọc trong cuộc đời kháng chiến. Cuối cùng, họ rời bỏ hàng ngũ và “dinh tề” trở về thành phố hay trong vùng Liên Minh Thánh "Pháp-Vatican" tạm chiếm, trong đó, có nhiều người "trùm chăn", đứng ngoài cuộc chiến, không theo phe nào cả. Tuy vậy, nhưng trong thâm tâm những người này, họ vẫn thầm mong cuộc kháng chiến do Mặt Trận Việt Minh sẽ đại thắng để cho dân ta không còn mang cái nhục vong quốc, không còn bị khinh rẻ là "những quân tà giáo", là "thứ dân man di", là "hạng người mọi rợ" và không còn rơi vào cái thảm họa chết đói ghê gớm như đã xẩy ra trong mấy tháng mùa xuân năm Ất Dậu 1945.
Những người còn lại (5 và 6) hầu hết đã hăng hái tham gia kháng chiến hết lòng, nhất là ở địa phương thích hợp. Trong quá trình tranh đấu, chính quyền Việt Minh đã có những lúc sai lầm , nhất là trong giai đọan cải cách ruộng đất. Mặc dù việc cải cách là việc rất cần thiết, nhưng phương cách thực hiện sai lầm đã làm cho nhiều người phải kinh sợ và trốn lánh để bảo tòan tánh mạng.

B.- Tình hình chính trị và những ngày tháng lịch sử trong những năm 1945-1954:

Trước năm 1941, tất cả các đảng phái cách mạng hay cứu quốc đều phải hoạt động bí mật. Vì vậy các đảng phái này đều được gọi là các đảng bí mật, đặc biệt nhất là từ năm 1926 trở về sau. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học và VN Quốc Dân Đảng lãnh đạo bùng nổ nhưng không thành công. Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị bắt và đưa lên máy chém, Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng nổ ở Trung Kỳ, vào năm 1930. Phục Quốc Quân do Trần Trung Lập và Đoàn Kiểm Điểm lãnh đạo, chiếm Lạng Sơn nhưng bị Pháp và Nhật bắt tay nhau đàn áp. Pháp đàn áp nghĩa quân dữ dội vào năm 1940 khiến cho Đoàn Kiểm Điểm tử trận, Trần Trung Lập bị bắt và bị tử hình. Rồi Nam Kỳ khởi nghĩa do đảng Cộng Sản lãnh đạo bùng nổ ở miền Nam vào năm 1940. Thực dân Pháp đàn áp dữ dội. Hầu hết các cán bộ đảng bị bắt hay bị xử tử.
Sau những vụ đàn áp này, ngoại trừ hai giáo phái Cao Đài và Hoà Hảo (có Nhật đỡ đầu), còn các đảng phái khác đều phải rút vào bí mật. Các đảng phái ở miền Bắc rút sang mấy tỉnh Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông vừa tránh khỏi bị bắt vừa tìm cách quy tụ lại với nhau, và họ rất ngại về Việt Nam vì sợ bị bắt. Riêng có Mặt Trận Việt Minh vẫn có những tổ chức bí mật hoạt động tại các vùng rừng núi ở các tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Ngoài ra, họ còn có những tổ hoạt động bí mật trong những nơi nào có nhiều công nhân lao động như các đồn điền cao su ở miền Nam và Cao Nguyên Nam Trung Bộ, ở các công trường khai thác mỏ than Hòn Gay, Cẩm Phả, Uông Bí, các nhà máy kỹ nghệ ở trong các thành phố lớn, và ở trong đám nông dân nghèo ở trong nông thôn. Tình trạng này kéo dài cho đến khi Nhật đầu hàng Đồng Minh vào ngày 15/8/1945
Cho mãi gần đến ngày 15/8/1945, biết rằng Nhật sắp đầu hàng, Việt Minh ban hành lệnh tổng khởi nghĩa từ chiến khu Việt Bắc. Nhưng vì một phần con số thành viên của Mặt Trận cũng giới hạn, một phần vì phương tiện truyền thông vào lúc đó còn quá thô sơ, cho nên khi có lệnh ban hành kêu gọi toàn dân đứng lên phất cờ khởi nghĩa là người nọ truyền tới người kia rồi tự động kéo nhau đi biểu tình đề giành lại quyền làm người cho dân tộc.
Vào lúc đó, Việt Minh mới lên nắm chính quyền, tổ chức chính quyền chưa vững, quân đội chưa được tổ chức chu đáo, nguồn tài chánh không có, chỉ trong cậy vào sự ủng hộ của nhân dân, đồng thời lại phải đối đối phó thù trong và giặc ngoài.
Quân Pháp tiến ra Bắc và khoảng cuối tháng 5/1946 và quân Tàu bắt đầu dần dần rút về Tầu. Các đảng phái quốc gia dựa vào Tầu để kiếm chác quyền hành cũng phải co giò ba chân 4 cẳng chạy trốn theo. Điều đau buồn là có một số những thành phần trong các đảng phái quốc gia này, sau đó lại quay ra liên kết với Liên Minh Thánh Pháp Vatican để chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam.
Được đóng quân ở miền Bắc rồi, Quân Pháp tìm cách gây hấn tấn chiếm Hải Phòng vào ngày 22/11/1946, rồi tiếp tục gây hấn nữa. Cuối cùng Việt Minh và dân ta không chịu đựng nổi và chiến tranh toàn quốc bùng nổ vào ngày 19/12/1946.
Đây là một cuộc chiến bất cân xứng. Quân Pháp với những vũ khí hiện đại (với lúc bấy giờ) lại cấu kết chặt chẽ với Vatican trong mưu đồ sử dụng khối tín đồ Da-tô bản địa gần hai triệu và tầng lớp cựu quan lại để phá tan lực lượng kháng chiến của nhân dân ta. Vì vậy họ mới phóng ra những cuộc hành quân chớp nhoáng với mục đích chiếm đóng các thành phố lớn và vùng đồng bằng đông dân cư.
Để chống lại các cuộc tấn công của Pháp bằng những vũ khí tối tân trong đó có cả không lực và hải lực, Việt Minh áp dụng chiến thuật du kích lấy nông thôn bao vây thành thị, cầm cự cho đến khi trưởng thành mới chuyển sang giai đoạn tổng phản công. Tình trạng này kéo dài cho đến mùa hè năm 1950 với những thảm bại của Liên Minh Thánh "Pháp – Vatican" ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn và Lạng Sơn.
Tuy vậy, quân đội Liên Minh Thánh vẫn còn kiểm soát chặt chẽ các thành phố lớn và các vùng phụ cận cho đến khi bị đại bại ở Điên Biên Phủ vào ngày 7/5/1954.

C.- Hòan cảnh dân chúng trong bối cảnh chính trị nói trên -

Tổng kết các biến chuyển chính trị lúc đó, Việt Minh chỉ ở Hà Nội từ ngày 19/8/1945 cho đến ngày 19/12/1946 (16 tháng), ở Hải Phòng từ ngày 19/8/1945 cho đến ngày 22/11/1945 (15 tháng). Các tỉnh lớn khác như Hải Dương, Nam Định, Bắc Ninh, Đà Đông, Huế, cũng không lâu hơn bao nhiêu. Ở trong Nam lại còn ngắn hơn nữa.
Với những khoảng thời gian ngắn như vậy, những người có cơ hội tham gia Mặt Trận Việt Minh cũng bị giới hạn bởi tuổi tác và hoàn cảnh gia đình (chỉ những thanh niên không vướng bận với thê nhi hay cha già mẹ yếu) mới có thể dễ dàng dứt khoát ra đi tham gia kháng chiến để đòi lại đất nước cho quê hương. Còn những người khác, trong đó có những lớp người trẻ vào khỏang từ 16 tuổi trở xuống (chưa đủ lớn để ra đi) phải ở lại quê nhà của họ trong các thành phố. Đặc biệt nhất là lệnh toàn quốc kháng chiến ban hành chớp nhoáng vào chiều tối (ngày 19/12/1949 lúc 8 giờ tối) thì các bộ phận quan trọng trong mặt trận kháng chiến đã rút ra vùng ngoại ô. Chỉ còn một số anh em tự vệ và Trung Đoàn Bảo Vệ Thủ Đô ở lại dùng những vũ khí thô sơ như mã tấu, dao găm và mấy khẩu súng Musqueton chống lại những binh đoàn tinh nhuệ và thiện chiến được trang bị bằng những vũ khí hiện đại của Liên Minh Thánh Pháp – Vatican. Hầu hết người Hà Nội và các thành phố lớn khác đang bị kẹt giữa hai lắn đạn, và phải sống dưới sự kìm kẹp của quân đội Liên Minh Thánh "Pháp-Vatican" trong đó có những luật lệ về an ninh và luật tổng động viên. Hơn nữa, sự kềm kẹp này còn có sự tiếp tay của tín đồ Da-tô người Việt cùng với một số (không phải tất cả) những thành phần cựu quan lại và bọn lưu manh “đón gió trở cờ”.
Trong thời gian từ 19/12/1946 cho đến tháng 7/1954, nhân dân nằm trong vùng Việt Minh kiểm soát rất nhiều, và nhân dân nằm trong vùng do Liên Minh Pháp-Vatican kiểm soát cũng không phải là ít. Có thể nói là tương đương nhau hay bên này nhiều hơn bên kia với mức độ không quá chênh lệch. Ngòai những người chạy trốn vùng Việt Minh vì là nạn nhân của sự sai lầm trong phương cách thi hành chiến dịch cải cách ruộng đất, còn nhiều nhân dân nằm trong vùng Liên Minh Thánh "Pháp – Vatican" kiểm soát vẫn có cảm tình với Mặt Trận Việt Minh. Tâm lý này có được khi họ nhớ tới mối nhục vong quốc với nạn đói năm Ất Dậu, nhớ tới tình cảnh bị khinh rẻ là “những quân tà giáo”, những phường mọi rợ” “những thứ người dã man”, nhất là những hành động cướp của, giết người, đốt nhà, phá đình phá miếu của quân lính Pháp và các toán quân thập tự trong những cuộc hành quân phát xuất từ các làng đạo, các Giáo Khu Phát Diệm, Bùi Chu, và đạo quân thập tự dưới quyền chỉ huy của Leroy bắn vào làng lương ở gần bên.
Chính vì cái tâm lý này mà có rất nhiều người trai trẻ ở trong vùng Pháp Vatican kiểm soát đã trốn đi theo Việt Minh. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân, không phải ai cũng có thể trốn đi theo Việt Minh một cách dễ dàng như vậy. Người thì biết rõ không có khả năng chịu đựng gian khổ, người thì bị ràng buộc bởi mối liên hệ gia đình và rất sợ hình phạt của bọn tay sai Pháp – Vatican ở tại địa phương. Bọn này quả thật là một thứ hung thần mà chính bản thân tôi đã chứng kiến tại đồn Đông Tạ, thuộc huyện Vĩnh Bảo (trước kia thuộc tỉnh Hải Dương, trong nhũng năm 1946-1954 thuộc Secteur Kiến An). Hung thần ở trong đồn là tên Bang Tá Nguyễn Cao và tên Cai Đen cả hai tên hung thần này đều là tín đồ Da-tô. Chỉ một đêm chúng có thế tra tấn và giết hại tới hai ba người và chính tôi là một trong những người phải đào lỗ và chôn những nạn nhân này. (Chuyện xẩy ra vào giữa năm 1950 sang đầu năm 1951 khi tôi bị bắt giam ở trong đồn này.)
Ngày 15/7/1951, chính quyền bù nhìn ban hành dụ 12 cưỡng bách thanh niên từ 18 tuổi trở lên (tôi không biết rõ đến bao nhiêu tuổi) ở trong vùng tạm chiến phải đi lính cho giặc. Trong số những nguời bị gọi này, những người có trình độ lớp nhất (lớp 5 bây giờ) có thể đuợc gửi đi đên các trường hạ sĩ quan thụ huấn độ hai hay 3 tháng để trở thành trung sĩ (thày đội). Ai có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp (học hết lớp 9) sẽ được gửi vào trường sĩ quan trừ bị như Nam Định và Thủ Đức.
Đồng thời chính quyền Liên Minh Thánh cho mở các cuộc hành quân lùng bắt thanh niên trong vùng kiểm soát của chúng và cưỡng bách họ phải đi lính. Trong số những người này, có nhiều người đi lính cho Pháp đóng ở gần quê nhà nhân cơ hội thuận tiện kéo mấy người bạn đồng đội về địa phương lùng tìm những thằng cường hào ác bá đã tác oai tác quái trong vùng để trả thù. Chính tôi đã chứng kiến cái cảnh này ở Núi Đèo, Thường Sơn, Thủy Tú, (Thủy Nguyên, Kiến An) và An Lão (Kiến An)
Trong số những người bị động viên, có rất nhiều người đã trở thành sĩ quan và hạ sĩ quan trong quân đội bù nhìn Bảo Đại. Vì bị động viên, nên khi Liên Minh Pháp – Vatican bị đại bại ở Điện Biên Phủ, có rất nhiều người bỏ hàng ngũ trở về sống với gia đình, và khi Thoả Hiệp Genève vừa ký xong, thì hàng hàng lớp lớp lính Bảo Đại bỏ hàng ngũ về với gia đình và ở lại miền Bắc. Tôi có một người bạn rất thân tên là Trần Sĩ Long, xuất thân từ trung sĩ truyền tin thuộc Tiểu Đoàn Công Binh 73 Tồng Hành Dinh ở Bến Đò Bính, Hải Phòng, được gửi đi học lớp sĩ quan Đà Lạt khoá 8 hay Khoá 9 vào năm 1953 (cùng khóa với Tướng Phạm Văn Phú). Khi tốt nghiệp ra trường vào đúng lúc Điện Biên Phủ thất thủ, anh trốn ở lại miền Bắc, Người em ruột của Tướng Phạm Văn Phú là Phạm Văn Đương là Trung Sĩ của Tiều Đoàn Công Binh 73 trên đây cũng trốn ở lại miền Bắc.
Dĩ nhiên là có một số người, không phải là tín đồ Da-tô cũng di cư vào miền Nam. Dân ta chỉ có 5% là tín đồ Da-tô (vào thời điểm 1954). Ấy thế mà trong số 860.000 người Bắc di cư vào miền Nam, có tới 600 ngàn là tín đồ Da-tô. Sự kiện này chứng tỏ đại khối nhân dân ta theo tam giáo cổ truyền không muốn di cư vào miền Nam.
160 ngàn người Bắc không phải là tín đồ Da-tô di cư vào miền Nam có nhiều nguyên nhân:
1.- Những thành phần quan lại trong thời Pháp thuộc.
2.- Những công chức và sĩ quan trong quân đội Liên Minh Thánh hay chính phủ bù nhìn Bảo Đại và thân nhân của họ.
Phần lớn những người này yên trí đã có công ăn việc làm cho nên họ di cư vào Nam. Nếu ở lại miền Bắc, họ sẽ rơi vào tình trạng “hàng thần lơ láo phận mình ra sao”. Thứ hai là vấn đề sinh kế. Theo chân quân đội Liên Minh Thánh Pháp - Vatican hay chính quyền bù nhìn Bảo Đại thì không phải lo vấn đề sinh kế và cũng tránh được những gì bất trắc có thể xẩy ra trong tâm trạng âu lo đó
3.- Những thị dân buôn bán ở đô thị vốn đã có ý muốn vào miên Nam sinh sống vì miền Nam là nơi đất mới, đồng ruộng bát ngát, đất đai phì nhiêu, dân tình chất phác hiền hòa, khí hậu lại ấm áp, không có giông bão và cũng không có nạn nước lụt, ít có nạn hạn hán như miền Bắc và cũng không có cảnh mùa đông băng giá gió lạnh căm căm như ở miền Bắc.
Miền Nam đi dễ khó về,
Trai đi có vợ, gái về có con.

4.- Những thành phần địa chủ ở trong vùng Việt Minh kiểm soát và đã bị quy liệt vào thành phần đối tượng sẽ hay sắp bị đưa ra tố khổ. [Mãi đến cuối năm 1953, chính sách đấu tố mới được ban hành và chỉ thi hành ở các vùng do Việt Minh kiểm soát. Chưa tiến hành ở các xóm đạo và các giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu vì chưa bắt rễ được theo sách lược "tam cùng"]. Rất khó cho những người này có thể trốn khỏi vùng Việt Minh kiểm soát ở tỉnh Trung Du, ở Liên Khu Tư (Thanh Hoá, Nghệ An, Hã Tĩnh và Quang Bình) và một số vùng nằm ở trong Liên Khu III như Thái Bình. Những người này đã trải qua 9 năm ở vùng Việt Minh kiểm soát, phương tiện giao thông hiếm hoi, kiến thức về đường đi nước bước để đi trốn cũng không rành cho lắm. Tuy nhiên cũng vẫn có một số người đã trốn được tới Hải Phòng rồi xin được vé tầu di cư và miền Nam. Con số những thành phần đã trải qua cái cảnh này thực sự rất ít.
Đến đây, thiết tưởng anh đã hiểu rõ những lý do và những hoàn cảnh khác nhau của một số lớn dân chúng đã không tham gia, không thể tham gia, hay không thể tiếp tục tham gia Mặt Trận Việt Minh.
NGUYỄN MẠNH QUANG

- Thư số 3: Ô. Nguyễn Mạnh Quang

Đầu tháng 11 năm 2005

Anh Trần Xuân An thân mến,
Chúng tôi đã đọc thư trả lời của anh, xin hồi âm anh liền để anh khỏi nóng ruột. Sau đó, tôi lại phải viết bài cho tháng 12/2005. Tôi xin đi thẳng vào vấn đề:
Về chỗ anh nói là tôi "còn tránh né vấn đề". Anh nói: "Thực chất vấn đề của cả 2 giai đoạn, 1930 -1945 -1954 và 1954 -1975 -1989, anh thừa biết bằng chính trải nghiệm bản thân, bằng đôi mắt, trí tuệ của một nhà nghiên cứu sử, nhưng chắc hẳn anh còn ngại."
Cảm giác này của anh có lẽ một phần cũng đúng vì tôi không đào sâu khía cạnh mà anh mong muốn. Việc dễ hiểu lắm thôi: Nó không phải là "chủ đề" mà tôi đang viết. Còn những gì tôi kinh nghiệm về giai đoạn trước năm 1975 tuy không viết thành chủ đề, nhưng đã, đang, và sẽ thể hiện rải rác trong các tác phẩm của tôi trong những đề tài mà tôi nghiên cứu. Một số nhỏ sự kiện liên hệ đến các giai đoạn này tôi cũng có cơ hội đề cập trong bức thư trả lời anh Võ Thành Long được đăng trong mục nối kết sau đây. Mời anh đọc:
http://www.giaodiem.com/doithoaiIV/12_nmq_vnchI.htm
Phần trình bày sau sẽ cho thấy thêm những lý do tôi không chú ý đến giai đoạn sau 1975 ở Việt Nam .

Điều kiện chuyên môn:

Tôi quan niệm rằng, khi lao vào viết một đề tài về một thế lực hay một giai đoạn trong lịch sử, thì phải:
1.- Nghiên cứu rất sâu rộng về đề tài hay thế lực đó, như tôi đã trình bày trong thư trước.
2.- Nếu được sống trong cái thời kỳ dưới quyền cai trị của thế lực đó thì tốt hơn.
Muốn viết cho trung thực và phải có đủ cả hai điều kiện trên đây không phải là một chuyện dễ dàng. Suốt từ năm 1955 cho đến ngày nay, tôi không hề sống dưới chính quyền đương thời . Không phải là người dân bị trị thì chắc chắn ngòi bút của tôi không thể lột hết được những sự thật bằng các nhà viết sử chân chính đã từng hay đang sống trong chính quyền hiện nay nhiều hơn. Không biết rõ bằng người ta mà lại nhẩy rào vào viết thì chắc chắc là rơi vào tình trạng "Múa rìu qua mắt thợ". Vấn đề này xin nhường lại cho họ.

Một chút quan điểm lịch sử:

Đối với chính quyền hiện nay, tôi chỉ sống và kinh nghiệm ở miền Bắc cho tới năm 1955. Việc cải cách ruộng đất ở Việt Nam thời ấy là việc cần thiết, nhưng phuơng cách thi hành có những sai lầm rất trầm trọng khiến cho nhiều người bị oan ức và trở thành uất ức. Tôi tin rằng cũng có nhiều trường hợp như tôi phải bỏ quê đi vào Nam.
Tôi nhớ lại một đọan trong lịch sử. Vua Lê Lợi cùng với nhiều người trong đó có ông Nguyễn Trãi là nhân vật quan trọng hơn cả và các ông như Trần Nguyên Hãn,v.v.. nổi lên tổ chức kháng chiến chống quân Minh. Phải mất gần 10 năm mới đánh đuổi được quân Minh ra khỏi đất nước. Khi thành công, triều đình nhà Lê xử tệ với ông Nguyễn Trãi và ông Trần Nguyên Hãn.
Đọc lịch sử đến chỗ này, tôi thấy thương ông Nguyễn Trãi và ông Trần Nguyên Hãn vô cùng. Tuy nhiên, không vì thế mà lịch sử có thể gạt bỏ công ơn của vua Lê Lợi. Tôi nghĩ rằng, đối với Mặt Trận Việt Minh thì cũng vậy. Không vì cái sai lầm đó mà ta không thể ghi công Mặt Trận Việt Minh trong những trang hùng sử của nước nhà.

Kinh nghiệm ở miền Nam:

Từ năm 1955, tôi vào miền Nam sống cho tới ngày 30/4/21975, ngoại trừ ba năm (1966-1969) du học ở Hoa Kỳ, tôi đã nhìn thấy rõ bộ mặt thật của các ông Bảo Đại, Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, cũng như bản chất của chính quyền quốc gia do Bảo Đại đứng đầu và hai chế độ Việt Nam Cộng Hòa do ba tín đồ Da tô làm bung xung cho Vatican, Pháp, và Mỹ. Dù rằng đời sống vật chất của người dân thành thị hơi có chút thỏai mái hơn ở thôn quê rất nhiều, nhờ ảnh hưởng kinh tế giây chuyền trong giai đọan Mỹ quốc viện trợ, nhưng tôi đã nhìn thấy một sự sụp đổ từ lâu do chính sách Ki-tô hóa và độc tài gia đình trị của ông Ngô Đình Diệm. Có điều tôi chưa thể nhìn thấy hết các bí ẩn bên trong để có thể thuyết phục tôi minh định rõ rệt về chính nghĩa của miền Nam.

Vấn Đề Then Chốt :

Sau biến cố 1975, nhờ được đi dạy ở Mỹ, tôi có cơ hội được đọc rất nhiều tài liệu, và tìm ra nhiều sự việc mà trong 20 năm ở miền Nam tôi chưa hề được biết. Nhờ đó tôi đã xác định được trọng tâm của vấn đề liên quan trực tiếp đến vận mạng của Việt Nam là chỗ nào. Từ đó, liên tục hơn hai mươi năm, tôi chú tâm nghiên cứu về "vấn đề" mà tôi đã tìm ra: đó là Vatican.
Nhờ nghiên cứu, tôi biết được bàn tay máu và bàn tay vơ vét của Giáo Hội La Mã ở những nơi nào mà quyền lực của Giáo Hội vươn tới trong suốt chiều dài lịch sử từ ngày 20/5/325 cho đến ngày nay. Đây là lý do TẠI SAO tôi quyết định viết bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã. Phần I, ước chừng khoảng một ngàn trang (có lẽ in thành 3 tập, coi như đã hoàn thành. Phần II là phần nói về tội ác của Giáo Hội tại Việt Nam.
Tôi đang biện soạn dở dang thì bị thôi thúc bởi vấn đề nóng bỏng là Vatican và chính quyền Việt Nam đang tiến tới muốn thiết lập bang giao với nhau. Vì vậy tôi mới chuyển một số bài đã viết mà anh thấy ở www.giaodiem.com trong các tháng 9,10 và 11/2005.
Cần viết những gì chưa được ai nói:

Như đã có nói trên, lịch sử trong nước giai đoạn sau năm 1975 ở Việt Nam thì tôi cũng không được kinh nghiệm, và đây cũng không nằm trong các vấn đề nghiên cứu của tôi. Giai đoạn này có lẽ anh là người thông thạo hơn tôi. Ở ngọai quốc, cũng không có nhiều tài liệu quốc tế nào chú ý đến giai đọan này lắm, hoặc có thể cũng có nhưng tôi không được biết vì tôi không xem nó là thiết yếu nữa.
Các tác giả ở quốc ngoại cũng đã xuất bản hằng hà sa số các bài viết bằng nhiều phương tiện khác nhau. Đa số người viết đều không thuộc lãnh vực chuyên môn, không theo các phương pháp sử, lẫn lộn sự kiện và ý kiến hay tình cảm. Tựu trung đều do những cái nhìn từ những người mất đi thời oanh liệt, hay bị tù đày sau biến cố 1975. Những tác giả này đã không tiếc một lời nào mạt sát chính quyền hiện tại, và cũng không tiếc lời ca tụng chế độ nhà Ngô.
Nay thì với "mặt trận tổ quốc" ở trong nước, mà anh nói trong thư trước, có lẽ rồi anh sẽ được đọc hết các tác phẩm đó du nhập vào quốc nội.
Có vài tác giả nằm trong lãnh vực chuyên môn ở hải ngọai thì lại tránh né các sự thật bất lợi cho những thế lực hiện hữu (giáo hội La Mã và những người mong muốn phục hồi chế độ miền Nam cũ). Anh nghĩ rằng chỉ có trong nước mới bị áp lực hay thôi sao?
Do đó, những tài liệu mà tôi đang tìm tòi, tuy đầy dẫy nhưng không được ai phổ biến. Tuyệt đại đa số các hệ thống truyền thông ở hải ngọai là do các thế lực nói trên làm chủ hoặc khống chế. Hiếm hoi lắm mới có được một website như Giao Điểm dám đăng những bài của chúng tôi ,… thì bị họ chụp mũ là của phe bên kia, chửi rủa chúng tôi một cách rất đê tiện, để người ta không dám vào đọc. Những người như chúng tôi phải đương đầu với những khó khăn này để viết lên những sự thật bị che đậy thì đếm không đủ bàn tay. Đó là lý do chúng tôi tiếp tục đề tài đang nghiên cứu vì tính cách hiếm hoi của nó.

Những giới hạn không thể vượt qua: Thời gian, Sức khỏe.

Riêng về đề tài mà tôi chọn, tôi đã phải dành ra tới hai mươi năm để tìm đọc các sách sử và tài liệu để viết sao cho đúng với sự thật của lịch sử mà những tín đồ Da-tô người Việt không thể bắt bẻ và phản bác được. Nói để cho anh nhìn thấy rõ nỗi khổ tâm của tôi là từ khi những tác phẩm của tôi được phổ biến, tôi bị hơn một triệu người hải ngoại gồm các ông tu sĩ, tín đồ Da-tô và những người đã từng được hưởng những đặc quyền đặc lợi trong hai chế độ đạo phiệt Da-tô- Ngô Đình Diệm và quân phiệt Da-tô Nguyễn Văn Thiệu chống đối mãnh liệt bằng đủ mọi phương cách. Họ đã dùng đủ mọi thủ đoạn từ khủng bố hăm doạ (rằng gặp tôi ở đâu sẽ bắn chết tôi ở đó), chửi bới, rỉ tai xúi giục bạn bè và học trò cũ của tôi chống lại tôi. Thậm chí họ còn sắp xếp cho Giáo sư Nguyễn Văn Trung đế tận nhà tôi vừa để chất vấn và xúi giục vợ tôi (gốc là tín đồ Da-tô) chống lại tôi. Vẫn còn may là vợ tôi biết phân biệt lý lẽ, nên nổ lực của ông hoàn toàn vô ích.
Thú thực với anh, tôi sợ rằng tôi không có đủ thì giờ để hoàn tất những bài viết hay những tập sách mà tôi đã đề ra trong giới hạn tuổi già ngày càng đe dọa sức khỏe của mình.
Mong rằng những tâm tình trên đây đã đủ trả lời những thắc mắc của anh. Xin phép anh để tôi trở về nối tiếp công việc nhé.

Tái Bút:

1. Xin kèm đây một hai trang giấy tóm tắt về việc chính quyền miền Nam trước năm 1975 cố tình xem nhẹ và cắt giảm môn sử thế giới và sử Việt Nam.
2. Nếu anh thích thì xin anh đề nghị với Giao điểm (tôi đồng ý), cho đăng tất cả các lá thư trao đổi của anh và tôi (kể cả lá thư này).
3. Trong thư trước, tôi có 1 vài chỗ đánh máy sai, xin anh dùng bản kèm dưới đây.
Thân,
NMQ.
[bạn đọc lưu ý: “bản kèm dưới đây” tức là lá thư ở trên. - Gđ.]

- Thư số 4: Thư hồi đáp của Trần xuân An:

Việt Nam, TP.HCM., lúc 10 : 10, ngày 06-11 HB5

Kính gửi nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Quang

1.

Thưa anh,
Trước hết, như lời đề nghị cởi mở và niềm nở của anh trong thư trước, tôi xin phép được gọi anh bằng anh, thay vì bằng ông, với tất cả sự kính trọng và niềm cảm ơn.
Thật không ngờ anh lại viết hẳn một bài báo để giải đáp giúp tôi một vấn nạn về một giai đọan lịch sử đã qua. Trong ý định của tôi, tôi thành thật mong ước chính những nhà nghiên cứu sử, nhà văn ở hải ngoại thuộc vào lớp tuổi cha anh tôi, như anh và hai nhà nghiên cứu Bùi Kha (Hồng Quang), Trần Chung Ngọc, sẽ giải đáp giúp. Vấn nạn là: Nguyên nhân nào một bộ phận không nhỏ nhân dân cả nước (1930 – 1954) và khá lớn nhân dân Miền Nam sau này (1954 – 1975) không theo Việt Minh, Việt Cộng; thậm chí sau Ngày Thống nhất 30-04-1975, không những dân Miền Nam mà cả dân Miền Bắc, trong đó có đến 2 triệu người cũng di tản, vượt biên hoặc ra đi theo các diện hợp pháp? Tôi cũng xin thưa trước, đó không phải là một câu hỏi cắc cớ và vô lễ, mà thực chất còn nghiêm trọng hơn cả một câu hỏi. Đó là một vấn nạn lịch sử. Hơn thế nữa, đó là vấn nạn lớn nhất của thời đại chúng ta (gồm ba, bốn thế hệ đã trải qua và hiện còn sống) và không chỉ ở nước ta.
Ở trong nước, không ai dám viết đến tận cùng sự thật lịch sử. Cuốn tiểu thuyết Mùa hè bên sông của tôi, viết về đề tài đó, mặc dù tôi đã tự giới hạn, né tránh ít nhiều, vẫn không một nhà xuất bản nào cấp giấy phép xuất bản! Cuối cùng, phải liều gửi ra hải ngoại. Và may mắn được Web Giao Điểm, số tháng 6-2005, đăng tải trọn vẹn. Tôi nghĩ, ở hải ngoại, với điều kiện tự do, mới có thể viết một cách toàn diện và trung thực nhất. Tôi cũng lo ngại rằng nếu thế hệ những người cùng tuổi như anh, như các anh Bùi Kha, Trần Chung Ngọc, già yếu đi, rồi mất, hẳn không ai có thể gánh vác được sứ mệnh ấy. Sử học và văn học sẽ có những khoảng trống không thể lấp đầy.
Thưa anh,
Thật tâm tôi nghĩ vậy khi nêu lên vấn nạn và sứ mệnh trên. Có lẽ anh không nghĩ tôi nghiêm trọng hóa, quan trọng hóa vấn đề.
Khi nhận được điện thư của anh, tôi trân trọng đọc với tất cả lòng trông đợi. Tôi hiểu anh đã thận trọng và chu đáo. Xin cảm ơn anh rất nhiều.

2.

Thưa anh,
Ngoài sự sâu sắc khi phân tích tội ác tả đạo Thiên Chúa giáo, thực dân Pháp, phát xít Nhật và tính chất bù nhìn của Bảo Đại, cũng như khi phân tích cơ cấu giai cấp, thành phần xã hội thời trước 1954, tôi vẫn thấy anh còn tránh né vấn đề. Kính mạnh dạn thưa với anh như vậy.
Cũng xin mạn phép thưa với anh rằng, nếu so với giáo trình của các giáo sư đại học hiện thời ở trong nước, xét về cốt tủy vấn đề, bài viết của anh sâu sắc hơn họ rất nhiều, nhất là khía cạnh tội ác của Thiên Chúa giáo (sử học ở trong nước còn bị hạn chế bởi chính sách “mặt trận”). Nhưng chung quy, về cơ bản, vẫn không có gì khác.
Còn thời 1954 – 1975 hình như đã nhiều lần đề cập trên Web Giao Điểm rồi, nên trong thư này, anh chỉ lướt qua.
Thực chất vấn đề của cả 2 giai đoạn, 1930 – 1945 –1954 và 1954 –1975 – 1989, anh thừa biết bằng chính trải nghiệm bản thân, bằng đôi mắt, trí tuệ của một nhà nghiên cứu sử, nhưng chắc hẳn anh còn ngại.
Trong cuốn Mùa hè bên sông, cũng như ở rải rác các cuốn sách khác, bài viết khác của tôi, tôi nhấn mạnh thêm một số khía cạnh:
1. Ý thức hệ
(a. duy tâm } / { duy vật;
b. tư hữu } / { công hữu;
c. cộng hòa } / { chuyên chính…);
2. Yếu tố ngoại bang (hay chính xác hơn, là ngoại viện và chủ quyền dân tộc), cụ thể là đánh Pháp, đánh Mỹ, đánh tả đạo Thiên Chúa giáo, nhưng trong quá trình kháng chiến bị lệ thuộc, nên trong chiến thắng về sau, sẽ càng lệ thuộc, thậm chí là nô lệ Nga Sô (13 nước sáp nhập thành Liên Xô, đứng đầu là Nga), nô lệ Trung Cộng. Đó là nhận thức nhãn tiền thuở bấy giờ và dự đoán tương lai cũng từ thuở đó.
Nếu vậy thì sự khốn khổ, máu xương đổ ra cũng vô ích, và tệ hơn thế nữa, vì mất cả đình, chùa (truyền thống thờ cúng tổ tiên, đạo Phật) và chịu sự chuyên chế (chuyên chính). Về học thuyết cộng sản, công hữu là công bằng nhưng lại làm mất tính cạnh tranh, vốn là động lực phát triển kinh tế… “Thưc tiễn là thước đo của chân lí” , chứ không phải là học thuyết tư biện, sách vở… Và còn chủ thuyết lấy đấu tranh giai cấp tự giác, có lãnh đạo làm động lực phát triển nữa…
Từ 2 nguyên nhân trên, dẫn đến nguyên nhân, động cơ thứ 3 là:
3. Sách lược “nhu đạo”: Trước mắt (1930 -1975) là phải dựa vàp Pháp, Mỹ, thậm chí dựa vào tả đạo Thiên Chúa giáo, để chống cộng; sau đó mới tiếp tục chống lại chúng (Pháp, Mỹ, tả đạo Thiên Chúa giáo). Thế là lần lượt bẻ gãy 2 gọng kìm lịch sử.
Thưa anh,
Vắn tắt vài nét chính yếu như thế, kính mong anh và các anh Bùi Kha, Trần Chung Ngọc kiểm nghiệm lại giúp, và nếu có sử liệu thì quá tốt.
Dẫu thế nào, giai đoạn lịch sử ấy (1930 – 1975 – 1989) cũng đã trôi qua. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh được Pháp, góp phần đánh được Nhật, đánh được Mỹ, đánh cả tả đạo Thiên Chúa giáo (mặc dù hiện tại vẫn phải chấp nhận sự tồn tại của Thiên Chúa giáo ở trong nước với hệ thống tổ chức giáo đường, giáo xứ), lại đánh bại cả bá quyền bành trướng Trung Cộng và Kh’Mer Đỏ. Nhưng bi kịch của những người quốc gia, dân tộc chủ nghĩa chân chính, trong thâm tâm không chịu làm tay sai cho Pháp, Nhật, Mỹ và tả đạo, là rất lớn. Vấn đề là ở đó.

3.

Thưa anh,
Vấn đề người Miền Bắc di cư vào Miền Nam hồi 1954, anh phân tích rất thật và sâu sắc. Tôi cũng mơ hồ phỏng đoán anh là người Miền Bắc. Tuy vậy, nói chung, người nghiên cứu sử phải lạnh lùng, khách quan, như anh đã lạnh lùng, khách quan.
Có một điều, hẳn anh đã biết, nhân dân Miền Nam vốn có định kiến với dân Miền Bắc, di cư 1954 và cán bộ – di thực 1975. Trong giai đoạn 1954 – 1975, dân Miền Bắc di cư dựa vào Mỹ, tả đạo Thiên Chúa giáo, Diệm – Thiệu để lấn lướt và cai trị Miền Nam (kể cả thời Nguyễn Văn Thiệu, người Phan Rang, làm tổng thống). Trong giai đoạn 1975 đến nay, dân “Miền Bắc 75” lại dựa vào chính quyền cộng hòa xã hội chủ nghĩa hiện nay để lấn lướt, thống trị dân Miền Nam. Về quyền lợi, quyền lực, trong cả hai giai đoạn, dân Miền Nam đều bị thua thiệt, trong khi ông cha tổ tiên họ phải mất mấy trăm năm khai phá, dựng xây Đàng Trong. Một ngoặc đơn cần mở ra ở đây: Riêng dân Quảng Bình, thời Nguyễn triều vốn có lợi thế; thời sau 1954, và sau 1975, vẫn có lợi thế!
Xin anh cảm thông thêm sự thật đó. Và cũng mong anh thông cảm về những từ ngữ tôi sử dụng: lạnh lùng, khách quan với mục đích hòa giải.

4.
Ngoài ra, còn một số ý trong thư anh viết, như vấn đề từ ngữ thông dụng và lịch sử của từ ngữ của 2 chữ “tả”, “hữu” cùng với sự kết hợp của 2 từ tố ấy với các từ tố, từ ngữ khác, như “tả khuynh”, và “ấu trĩ ”tả” khuynh”, “thiên tả”, “hữu khuynh”, “phái hữu”… Lịch sử từ ngữ quả đúng như vậy, nếu kể thêm trong một quốc hội nào đó, người ta chia ra 2 bên, bên trái (bình dân), bên phải (quý tộc), với 2 khuynh hướng chính trị như anh đã viết. Chữ “tả” này chỉ là phía trái, chứ không có nghĩa là xấu, tà mị như trong từ “tả đạo”. Ở Việt Nam, hiện nay, từ ngữ thông dụng vẫn là với nét nghĩa cuối mà anh đã định nghĩa (tư bản cộng hòa = hữu; hay cộng sản chuyên chính = tả).
Thưa anh,
Thư viết gọn mà cũng đã quá dài, kính mong anh vui lòng đọc. Nếu có gì sai sót, mong được sự góp ý của anh.
Kính chúc anh vui khỏe.
Trân trọng.
Kính thư,

Trần Xuân An
tranxuanan_vn@yahoo.com (chính thức),
tranxuanan_tphcm@yahoo.com.vn ,
tranxuanan_writer@hotmail.com
Tái bút: Thư anh và thư này của tôi, có thể kết hợp lại thành 2 bài báo có chung một nhan đề: Thư trao đổi về một thời kì lich sử, 1930 – 1975.
Kính xin ý kiến.
TRẦN XUÂN AN
06-11 HB5

____________________________________________

BÀI THỨ CHÍN

Bài đã đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
số tháng 8-2005
posted: 18.8.2005
với bút danh TRẦN NGÔN SỬ

Trần Xuân An
MỘT VẤN NẠN CÒN LẠI:
THÀNH PHẦN THỨ BA
THUỘC HÀNG NGŨ GIÁO PHẨM VÀ GIÁO DÂN THIÊN CHÚA GIÁO LA MÃ
TRONG BƯỚC ĐƯỜNG TƯƠNG LAI CỦA VIỆT NAM


1

Đất nước đã chịu đựng một nỗi đau nhức nhối suốt 21 năm (1954 – 1975), kể từ vết thương Bến Hải với Hiệp định Genève. Cho đến hôm nay, nỗi đau ấy vẫn chưa thể lành lặn, nguôi quên, mặc dù niềm nhức nhối bên này, bên kia dòng sông lịch sử đó có khác nhau.
Dẫu sao, đối với một bên Bến Hải, phía Bắc, niềm vui chiến thắng đã bù đắp vào nỗi đau xưa; trong khi đó, đối với một bên khác, phía Nam của dòng sông lịch sử ấy, sự bại trận và lưu vong ra nước ngoài, niềm nhức nhối càng dậy lên khi vết thương trong tâm trí ngày càng sâu hoắm, mặc dù Liên Xô và Đông Âu xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ, ba nước rưỡi theo chủ thuyết Mác – Lê (Marxisme – Léninisme) còn lại đã gần 20 năm tiến vào lộ trình hòa nhập với chủ nghĩa tư bản.
Sách báo trong nước không thể bày tỏ một cách toàn diện, do quy chế nghiêm ngặt về báo chí, xuất bản. Sách báo hải ngoại hầu hết cũng không muốn thể hiện trọn vẹn, bởi sức ép ngầm hoặc thô bạo của các thế lực, một lẽ là thế, và một lẽ khác là bởi một phân số người Việt vẫn muốn giấu bớt những sai lệch cũ.
Nhìn trên tổng thể và tận chiều sâu lịch sử, ở Miền Nam cũng như Miền Bắc, phải chăng còn có một nỗi đau riêng giữa hai nỗi đau ngã hẳn về phía này hay phía khác ấy? Đó là nỗi đau của “thành phần thứ ba”, có thời đoạn được gọi là “lực lượng thứ ba”.
Với điều kiện tôn trọng chủ kiến riêng, chấp nhận tính đa dạng của các góc nhìn, trong chừng mức rất đáng kể, trên các diễn đàn hải ngoại, những thế hệ cùng thời có nhu cầu nội tâm phải cùng nhau nhìn lại lịch sử. Từ đó, sau khi những cánh cửa kinh tế, du lịch đã mở, cánh cửa sử học trong nước cũng cần thoáng rộng, đầy đủ ánh sáng trung thực, ánh sáng khoa học và ánh sáng cảm thông.
Liệu chúng ta, ít ra là vài ba thế hệ, kể cả thế hệ sinh ra, lớn lên nhưng chưa từng cầm súng trong giai đoạn lịch sử ấy, đã đủ bình tâm nhìn lại vết thương Bến Hải 1954 – 1975, sau 30 năm trôi qua, một quãng thời gian không ngắn ngủi, kể từ Ngày Thống nhất, 30 tháng 4-1975? Những tiếng nói của “thành phần thứ ba”, “lực lượng thứ ba” đã cất lên, vang vọng, giữa hai chiều đối nghịch không ngớt chĩa loa, chĩa bút vào nhau.
Người viết bài mạn đàm này cũng tự ý thức rất rõ về điều kiện hạn chế của mình.

2

Lịch sử vốn có những năm tháng được xác định là dấu mốc. Đâu là dấu mốc của nỗi đau lịch sử 21 năm chia cắt đất nước, 1954 - 1975? Không phải ngây ngô đến mức xem “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim là kinh điển về sách sử học, nhưng ít ra đã có một nhận định đáng giá từ lần xuất bản thứ nhất dưới chế độ thực dân – nửa phong kiến, 1924, khi ông ấy đã “lách” được, viết thành một câu nhận định về nguyên ủy của nỗi đau phân liệt dân tộc, nỗi đau xung đột “lương – giáo”, khởi từ những năm thuộc thế kỉ XVI, lúc “tả đạo” Thiên Chúa giáo La Mã và thực dân Hà Lan, Bồ Đào Nha, Pháp, Tây Ban Nha bước vào nước ta: “dần dần người trong nước chia ra bên lương, bên giáo, ghen ghét nhau hơn người cừu địch” [1]. Cũng như ở các nước Á, Phi, Mỹ la-tinh, thực chất đó là nỗi đau của lực lượng yêu nước Việt Nam chống ngoại xâm, chống một phân số đồng bào tay sai, mà Trần Trọng Kim chỉ dám viết là các nước Âu Tây “đi tìm đất” đồng thời câu kết với Giáo hội La Mã đi “truyền đạo” và dân bản xứ theo “tả đạo”.
Sông Bến Hải thành “Sông Tuyến” với hiệp định Genève 20-7-1954, thực ra, nguyên ủy đã có từ thế kỉ XVI, chứ không phải đến thời điểm 4 năm đầu nửa sau thế kỉ XX.
Nhìn nhận như vậy là không thể sai, nhưng cũng chưa thật toàn diện, thỏa đáng.

3

Năm 1917, phong trào cộng sản từ cuộc Cách mạng tháng mười Nga nổ ra, Đảng Cộng sản bôn-sê-vích (bolsévik) Nga với chủ nghĩa Mác – Lê trở thành một lực lượng có thực quyền, đã dần dần lan tỏa ra khắp thế giới, nhất là sau thế chiến thứ hai, 1939 – 1945. Đó là một lực lượng đối trọng với chủ nghĩa tư bản, vốn đã trở thành chủ nghĩa đế quốc Âu Mỹ, và đối trọng với cả đế quốc tôn giáo Vatican – La Mã.
Từ những năm của thập niên 20 thuộc thế kỉ XX, cho đến 1930, với sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và cuộc khởi nghĩa Xô-viết Nghệ – Tĩnh, 1930 – 1931, dưới ngọn cờ nền đỏ, biểu trưng Búa - Liềm vàng, trong nước ta thật sự đã có một lực lượng cách mạng khác hẳn với với các lực lượng yêu nước, chống ngoại xâm trước đó (Văn thân, Cần vương [2], Đông du, Duy tân) và cùng thời (Việt Nam Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học).
Không phải sĩ dân Văn thân, Cần vương, Đông du, Duy tân, cũng không phải Việt Nam Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học, mà chính Đảng Cộng sản Việt Nam, có giai đoạn tạm giấu mình thành Mặt trận Việt Minh, mới thật sự là lực lượng có thực lực quân sự và có hậu thuẫn quốc tế để có thể đối đầu với thế lực thực dân Pháp, một thế lực ngoại xâm câu kết với “tả đạo” Thiên Chúa giáo xâm lược.
Sông Bến Hải trở thành vết thương lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới kể từ đó, chứ không phải đợi đến 1954 với hiệp định Genève. Sông Bến Hải (1954) cũng như Bức tường Bá Linh ở Đức (Đông Đức – Tây Đức, 1945), eo biển Đài Loan (Trung Hoa lục địa – Trung Hoa Đài Loan, 1949), Bàn Môn điếm ở Cao Ly (Triều Tiên và Đại Hàn, 1953). Nhưng rõ rệt nhất về sự đối đầu giữa hai khối trong cuộc “Chiến tranh lạnh”, Nga đứng đầu khối cộng sản với chủ nghĩa vô thần và Mỹ đứng đầu tư bản đế quốc với “tả đạo” Thiên Chúa giáo, vẫn là sông Bến Hải với cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài 21 năm (1954 – 1965 – 1975).

4

Trong tình huống lịch sử của đất nước và của thế giới như vậy, không thể không có một thành phần thứ ba. Nói không với chủ nghĩa cộng sản vô thần đồng thời nói không với thực dân, đế quốc tư bản chủ nghĩa câu kết với “tả đạo”, thành phần ấy là phân số trí thức, nhân dân được gọi là thành phần thứ ba, có khi gần như có thực lực và quyền lực để được gọi là lực lượng thứ ba.
Thành phần thứ ba này, từ 1930 - 1945, dẫu không chấp nhận khối nào cả, cũng đành phải đứng về một phía, hoặc cộng sản vô thần vừa xuất hiện trên vũ đài lịch sử (Nga sa hoàng thực dân thành Nga xô-viết), hoặc thực dân, đế quốc, “tả đạo” cũ với bộ mặt mới (đế quốc Mỹ với bộ mặt thực dân mới, hất cẳng, thay chân thực dân cũ là Pháp, và “tả đạo” vẫn là Thiên Chúa giáo La Mã).
“Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi”

Tố Hữu, thi sĩ xứ Huế này, ở thời điểm những năm cuối thập niên 30 / XX, đã là một chứng nhân lịch sử khi viết hai câu thơ đó trong tập thơ đầu tay, “Từ ấy” (1938 / 1946).
“Thành phần thứ ba” không còn chọn lựa nào khác. Xét về nơi cư trú, họ phải tự chọn: sống ở Miền Nam (di cư) hay sống ở Miền Bắc (tập kết), sau ngày 20-7-1954? Chính kiến riêng có thể phải tạm thời giấu vào chỗ sâu kín nhất trong tâm trí mình. Đó là sự chọn lựa đối với những người hoặc do tâm tính quyết liệt, hoặc ở tình huống không thể không chọn lựa dứt khoát. Nhưng đại đa số nhân dân Miền Nam và Miền Bắc, vốn không thuộc khối này hay khối kia, họ bị buộc chặt bởi nhà cửa, quê hương, bản quán, chẳng thể chọn lựa gì cả.
“Thành phần thứ ba” thật sự là một phân số trí thức, nhân dân có thật, là một thực thể xã hội – chính trị – kinh tế có thật, trên cả hai miền Nam và Bắc suốt 21 năm, 1954 – 1975. Tuy nhiên, thái độ cộng tác hay không cộng tác với chính quyền Mỹ – ngụy hay chính quyền cách mạng chuyên chính vô sản, hai chính quyền đều lấy đó để đo lường chính kiến của họ, và cùng với luật quân dịch hay nghĩa vụ quân sự bắt buộc, dần dà, tất thảy đều gắn chặt với chế độ Miền Nam hay chế độ Miền Bắc. Nếu không, họ sẽ bị tiêu diệt, ít ra cũng bị trấn áp và tàn lụi. Quả thật, trong thực tế đã có hàng ngàn, vạn người bị thủ tiêu, ám sát lẻ, tù đày, giết chóc hàng loạt.
Trước mắt là hầu hết tạm thời dựa vào một trong hai, tuy nhiên, thành phần thứ ba này vẫn nuôi dưỡng ý định dần dà sẽ lần lượt bẻ gãy cả hai gọng kìm lịch sử của hai khối trên thế giới. Bên này, cho rằng chống cộng xong, sẽ đập tan “tả đạo” Thiên Chúa giáo và thoát khỏi nanh vuốt đế quốc Mỹ. Bên kia, cho rằng chống Mỹ, ngụy, “tả đạo” xong, sẽ thoát khỏi nanh vuốt Nga – Trung và chủ nghĩa vô thần phi truyền thống.

5

Giữa hai gọng kìm lịch sử, thành phần thứ ba ưu tú bị tiêu hao dần, bởi thực dân Pháp, “tả đạo” Thiên Chúa giáo và Mỹ – ngụy cũng như bởi Cộng sản, Việt Minh, chính quyền Miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đó là sự thật lịch sử. Mỗi người hiện còn sống, vốn đã sống qua giai đoạn lịch sử ấy, có thể hồi ức lại để dẫn chứng giúp cho dòng chữ này.
Tuy vậy, trong thực tế lịch sử giai đoạn 1954 – 1975, trong thành phần thứ ba vẫn có một phân số trí thức, nhân dân (gọi cách khác là sĩ dân thời đại mới) đã ra mặt chống lại chế độ hiện hành ở hai miền Nam, Bắc. Phong trào Nhân văn – Giai phẩm ở Miền Bắc ai cũng biết. Còn ở Miền Nam, sau 9 năm (1954 – 1963) dưới chế độ Ngô Đình Diệm, độc tài, gia đình trị và tay sai của “tả đạo” Thiên Chúa giáo, bù nhìn của đế quốc Mỹ, bao nhiêu người yêu nước đã bị thủ tiêu, ám sát hoặc bị bạo quyền họ Ngô giết hại trắng trợn, không cần đếm xỉa đến tòa án, pháp luật (đạo luật tháng 10-1959 đặt cộng sản ra khỏi vòng pháp luật!). Dưới chế độ ngụy quyền của tổng thống “tả đạo” Thiên Chúa giáo Nguyễn Văn Thiệu (1965 – 1967 – 1975) cũng thế, nhưng mức độ thủ tiêu, bạo hành trấn áp ít hơn, do đó lực lượng thứ ba đối lập, đấu tranh ra mặt cũng đông đảo hơn, tuy không tạo nên được hào quang rực rỡ, chói lọi như phong trào Phật giáo đấu tranh dưới chế độ Diệm, dẫn đến sự sụp đổ của “triều đại Ngô Đình”.

6

Nhưng rốt cuộc, ai đã chiến thắng? Ai đánh bại được thực dân Pháp? Ai góp phần đánh bại phát-xít (fascisme) Nhật? Ai đánh thắng đế quốc Mỹ? Ai đánh thắng được “tả đạo” Thiên Chúa giáo?
Cũng có thể tự hỏi và tự đáp thêm: Nhưng rốt cuộc, hai khối tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, ai đã thắng ai? Tự do, dân chủ, độc lập tư tưởng hay độc tài, chuyên chế, bao cấp tư tưởng là điều kiện để phát triển mỗi nhân phận và toàn xã hội? Phải chăng đây là thời kì thoái trào của cách mạng xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa xã hội hòa nhập vào chủ nghĩa tư bản, để lại phục hồi liên minh các nước xã hội chủ nghĩa ở một trình độ dân chủ cao hơn (chấp nhận đối lập, đối trọng như quy luật về âm dương tương khắc tương sinh mà Marx gọi là quy luật về mâu thuẫn hay mâu thuẫn luận)?
Vấn nạn còn lại là Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã và hàng ngũ giáo phẩm, giáo dân Việt Nam.
Với một lịch sử xâm lược, tay sai ghê tởm như vậy, ít ra là suốt 117 năm (1858 – 1975), giáo phẩm, giáo dân Việt Nam làm sao còn tư cách công dân Việt Nam, chứ đừng nói đến tư cách chính trị trên đất nước Việt Nam đã quá nhiều đau khổ, nhục nhằn bởi Thiên Chúa giáo? Không thể không tỉnh táo, sáng suốt nhận thức lại sự thật lịch sử, rồi tự hỏi như vậy và tự trả lời. Linh mục viện sĩ Trần Tam Tĩnh đã viết một cuốn sách về lịch sử 117 năm ấy, kể cả giai đoạn trước đó (“Thập giá và lưỡi gươm” [3] ), như Trần Trọng Kim đã viết, nhưng với một nội dung, mặc dù chưa đầy đủ nhưng phong phú hơn trăm lần, với một thái độ và cách diễn đạt rạch ròi hơn. Nếu cẩn trọng hơn một chút nữa, có thể đọc “Đại Nam thực lục chính biên” [4] các kỉ có liên quan (triều Tự Đức đến triều Hàm Nghi).
Nói rõ hơn, giáo phẩm và giáo dân Thiên Chúa giáo có thể tự cải đạo, lập ra đạo mới (Jésus-phản-đế) hoặc tự trở về với cái đình dân tộc, cái chùa Phật giáo (cái đình và cái chùa vốn là cơ cấu căn bản của văn hóa tâm linh – lịch sử Việt Nam truyền thống), nhưng Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã vẫn còn đó, giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam trực thuộc Vatican vẫn còn đó, cho nên, người ta có thể vẫn không bao giờ đặt niềm tin chính trị – xã hội vào những ai đã từng đứng trong hàng ngũ giáo phẩm, giáo dân Thiên Chúa giáo, mặc dù trong đó có người từng thuộc vào thành phần thứ ba trong giai đoạn 1954 – 1975 một cách tự phát.
Xin hãy dùng chính hình tượng Jésus-phản-đế để chống lại thần học và thần quyền Vatican, Phản thệ (Tin Lành), v.v., vì độc lập của mỗi quốc gia – cộng đồng dân tộc, trước khi trở về với cái đình, cái chùa Việt Nam.
Xin hãy đối diện với chính mình và tự vấn.
Người viết bài này không có ý định ngạo mạn là “khuyên nhủ” một ai, chỉ dám mạnh dạn nêu ra một trong những vấn nạn xã hội hậu chiến Việt Nam chúng ta trong ước vọng đoàn kết đại khối dân tộc.

TP. HCM., 18 : 08, 18-8-2005
TRẦN NGÔN SỬ
(Trần Xuân An)

[1] Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb. Tân Việt, bản 1964, tr. 343, tr. 338 – 343.

[2] Trong phong trào Văn thân, Cần vương, có sự đóng góp xương máu của Phật giáo:
“… Kể từ ngày 13.12.1883, một mật lệnh được truyền đi từ các sĩ phu, lãnh tụ đến cho các làng Phật giáo Bắc An Nam với nội dung khích lệ làm vũ khí chống lại “bọn Pháp nội công”. Cuộc tàn sát công giáo [thật ra, chỉ riêng bộ phận đích thực là “tả đạo”, theo giặc] sẽ thực hiện từ ngày 02 đến 08 tháng giêng 1884…” (Những người bạn cố đô Huế [Bulletin des amis du vieux Hué, 1916], bài “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên” của linh mục Aldophe Delvaux, tập III, Nxb. Thuận Hóa, 1997, tr. 57).
“… Sự cố [Văn thân bình Tây sát tả] này […] phải chăng là một sự thức giấc đột xuất của Phật giáo chống lại Thiên Chúa giáo có sức mạnh và đang tiến triển hàng ngày trên đất An Nam? Phải chăng đây là hậu quả thảm khốc của trận chiến tôn giáo? […] Ông Phật phải chăng có một sự trả thù sau cùng đối với ông Chúa xâm lược?…” (Những người bạn cố đô Huế [BAVH., 1923], bài “Một trang viết về lịch sử Quảng Trị, tháng 09.1885” của Jabouille, tập X, Nxb. Thuận Hóa, 2002, tr. 435).
Thực chất chỉ là chiến tranh xâm lược và chống xâm lược mà thôi! Đó là chiến tranh giữa một bên là Pháp, Tây Ban Nha và “tả đạo”; một bên là lực lượng chủ chiến thuộc triều Nguyễn, dân tộc Việt Nam với đạo lí yêu nước, thờ kính anh hùng dân tộc, tổ tiên truyền thống, trong đó có một phân số khá lớn đồng bào theo tam giáo [đồng quy].
Bộ phận đồng bào theo Đạo Phật là một lực lượng yêu nước vốn có truyền thống chống ngoại xâm lâu đời.

[3] Trần Tam Tĩnh (linh mục, giáo sư, viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia Canada), Thập giá và lưỡi gươm (nguyên tác: Dieu et Céçar), Vương Đình Bích (linh mục) dịch, Nxb. Trẻ, 1988.
Xem thêm: Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, UB.KHXH. TU. Tp. HCM. xb., 1993.

[4] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên (ĐNTL. CB.), các tập từ 27 đến 38 (triều Tự Đức đến triều Đồng Khánh), bản dịch Tổ Phiên dịch Viện Sử học Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1973 – 1978.

TXA.

_________________________________________________


BÀI THỨ MƯỜI

Bài đã đăng trên Tạp chí điện tử Giao điểm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III09/905_index.htm
số tháng 9-2005
posted: 22.8.2005

TRẦN XUÂN AN

TRAO ĐỔI VỚI NHÀ NGHIÊN CỨU SỬ HỌC NGUYỄN ĐẮC XUÂN
VỀ BÀI VIẾT:
“Sau ngày thất thủ kinh đô (5.7.1885)
Đại thần Nguyễn Văn Tường (1824-1886)
khó thoát khỏi bước đường cùng”


1.

Nguyễn Đắc Xuân là một trong những nhà nghiên cứu sử học tiên phong trong việc làm sáng tỏ những uẩn khúc về Nguyễn Văn Tường (1824-1886), nhất là đẩy lùi, xua tan những ngộ nhận tai hại về vị quan đầu triều này trong hai tháng ngắn ngủi sau cuộc kinh đô quật khởi và bị thất thủ vào khuya 04 rạng ngày 05-7-1885 (22 – 23 tháng 5, Ất dậu). Cách đây hơn hai mươi năm, từ 1983, trong một bài viết ngắn tổng hợp từ nhiều tư liệu, chủ yếu là tư liệu của thi sĩ tiền chiến, giảng viên đại học Phan Văn Dật, Nguyễn Đắc Xuân đã dùng cụm từ “nhiệm vụ lịch sử” một cách nghiêm chỉnh để xác định sứ mệnh của Nguyễn Văn Tường trong hai tháng ấy. Tuy nhiên, bấy giờ, như các nhà nghiên cứu khoa học xã hội khác, Nguyễn Đắc Xuân cũng không thể thoát ra khỏi quy định về quan điểm, lập trường đả phong quá khắt khe đến mức nghiệt ngã một cách phi lí của một thời.
Tôi nghĩ nhà nghiên cứu sử học Nguyễn Đắc Xuân, cho đến nay, vẫn còn bị ám ảnh bởi tai họa từ những biểu hiện vượt thoát quy định đả phong ấy của những người nào đó trong giới văn sử, mặc dù tinh thần chung của công cuộc Đổi mới gần hai mươi năm qua vốn khẳng định những giá trị dân chủ và ngày càng mở rộng, nâng cao tính dân chủ trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực khoa học xã hội, hơn là đả phong quá đáng, phi lịch sử – cụ thể.
Nhưng dẫu sao, đó không phải là cảm nhận thoạt tiên về bài viết tôi mạn phép được trao đổi với anh, mà chừng mức nào đó, là trái ngược. Với đầu đề bài viết, “Sau ngày thất thủ kinh đô (5.7.1885) Đại thần Nguyễn Văn Tường (1824-1886) khó thoát khỏi bước đường cùng” , Nguyễn Đắc Xuân khiến người đọc cảm thấy như thể đó là câu trích nguyên văn từ một ai đó khá hằn học đối với vị phụ chính đại thần yêu nước này [*]. Chẳng lẽ đó là lời anh Pha, trước cửa quan, trong tác phẩm “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan ? Tôi không tin như vậy. Đây chỉ là một chi tiết nhỏ, ngẫu nhiên, có tính chất bất chợt, cảm tính, ngoài lề.
Tôi cũng xác định tâm thế ngay từ những dòng chữ đầu, tôi đang viết một bài trao đổi nghiêm túc với bậc đàn anh, do đó, những cảm nhận đầu tiên kia không thể là tinh thần chủ yếu của bài viết đang hình thành này. Tôi tự nhủ điều hệ trọng nhất chính là phải nắm bắt được phương pháp tư duy và nhận định trong bài “Sau ngày thất thủ kinh đô (5.7.1885) Đại thần Nguyễn Văn Tường (1824-1886) khó thoát khỏi bước đường cùng” của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân.

2.

Riêng bài viết này của nhà nghiên cứu sử học Nguyễn Đắc Xuân, tôi không dám bàn đến lượng thông tin khách quan về lịch sử, nói rõ ra là về sử liệu, cho dù có một vài điểm, tôi thật sự nhận thấy là không thỏa đáng. Những chỗ khác biệt giữa bài viết của anh với nhận thức, nhận định của tôi mà tôi đã thể hiện ra ở bài viết của mình, “Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi [và bị thất thủ], 05-7-1885” , người đọc có thể so sánh và thấy rõ những nét khác biệt đó. Tuy vậy, cũng không thể không khẳng định lại một cách ngắn gọn.
Thứ nhất, đó là vấn đề tồn tại khá lưu cữu: Nguyễn Văn Tường có thật sự vạch ra kế hoạch và nhất trí với Tôn Thất Thuyết trong việc tổ chức, tiến hành cuộc kinh đô quật khởi (05-7-1885), tấn công Sứ quán Pháp và đồng thời tấn công quân binh của chúng ở nhượng thổ Mang Cá hay không?
Thứ hai, sau khi cuộc kinh đô quật khởi và bị thất thủ (05-7-1885), Nguyễn Văn Tường có thực sự ở lại Huế với sự phân công của nhóm chủ chiến để tiếp tục thực hiện kế hoạch với phương án 2 (trường hợp bị chiến bại, nhà vua và Tam cung, đình thần phải ra Tân Sở, Thành Hóa [Cam Lộ]), đó là phương án Tôn Thất Thuyết phát động kháng chiế và Nguyễn Văn Tường chủ động đàm phán với giặc Pháp?
Thiết tưởng, ở bài này, tôi thấy không phải viện dẫn các tư liệu đáng tin cậy, trong đó chủ yếu là tư liệu gốc, để minh chứng với cách lập luận của mình như đã khẳng định ở bài viết đã dẫn bên trên, “Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi [và bị thất thủ], 05-7-1885” , một bài viết tôi hoàn toàn tin tưởng càng ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu tán thành, ủng hộ và làm sáng tỏ hơn nữa, trên tinh thần khoa học đích thực.
Tuy thế, tôi thấy cần nhấn mạnh thêm một lần nữa một điều đã viết với luận chứng nghiêm túc: Có một số trang châu bản sau cuộc kinh đô quật khởi, bị thất thủ, do Nguyễn Văn Tường viết, trình lên Tam cung (đứng đầu là bà Từ Dũ) và giám quốc nhiếp chính Thọ Xuân vương Miên Định, thực chất chỉ nhằm đối phó với thực dân Pháp và phe chủ “hòa” (thực chất là đầu hàng) đang thắng thế. Đúng vậy, như TS. Nguyễn Nhã đã khẳng định trong Hội thảo, ngày 02-7-2004, viết những trang châu bản ấy, Nguyễn Văn Tường chỉ dùng đối phó mà thôi, trong sách lược “hai mặt”!

3.

Nhà nghiên cứu sử học Nguyễn Đắc Xuân, qua bài viết của anh mà tôi thấy cần phải mạn phép trao đổi này, anh đã khảo sát thái độ đối với Nguyễn Văn Tường, của bốn đối tượng:
a. thực dân viễn chinh;
b. cố đạo Thiên Chúa giáo;
c. quan lại cơ hội;
d. hoàng tử có nhân cách tồi tệ.
Tiêu biểu hoặc đích danh của bốn đối tượng ấy, là tên tướng De Courcy, tên khâm sứ De Champeaux, giám mục Puginier, tổng đốc Hà – Ninh Nguyễn Hữu Độ và hoàng tử Kiên Giang hầu Ưng Kỹ (Đồng Khánh).
Nguyễn Đắc Xuân đã kết luận: Nguyễn Văn Tường (cũng như nhóm chủ chiến) là kẻ thù không đội trời chung của chúng. Không có gì chính xác hơn.
Tuy vậy, phải chăng vẫn cần trao đổi với nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân một vài nét không phải là không hệ trọng trong sự khảo sát và kết luận nói trên của anh.
Một là, qua những tư liệu tôi đã dẫn chứng trong các khảo cứu của mình, cụ thể là những bức điện văn De Courcy gửi về Paris xin ý kiến và báo cáo với chính phủ Pháp, trong khoảng thời gian không dài trước và sau ngày 05-7-1885, nhất là qua bản án cáo thị khi lưu đày Nguyễn Văn Tường mà De Champeaux công bố ngày 05-9-1885 (tức là ngày 27 tháng 7 Ất dậu), ai cũng thấy rõ:
- Chính phủ Pháp tại Paris đã quyết định tấn công kinh thành Huế và bắt hai phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết;
- Đối với Nguyễn Văn Tường, bản án về ông mà chính phủ thực dân Pháp đã quyết án, đã có từ trước ngày kinh đô quật khởi, bị thất thủ; và sự gia hạn cho Nguyễn Văn Tường hai tháng sau ngày ấy cũng được chính phủ thực dân Pháp duyệt y từ đề nghị của De Courcy, De Champeaux và cố đạo Caspar (lấy tên Việt là Lộc).
Hai là, ngay bản án chung thẩm về nhóm chủ chiến (Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Trương Văn Đễ, Trần Xuân Soạn) vào cuối tháng 8 Ất dậu (tháng 10-1885), ở thời điểm Nguyễn Văn Tường đã bị lưu đày hơn một tháng, do đình thần và Tôn nhân phủ đưa lên, Đồng Khánh duyệt y, cũng có chữ kí kề bên của tướng giặc De Courcy. Trong một bài viết, linh mục Delvaux đã ghi thông tin khách quan này rõ như thế.
Ngay việc lưu đày Nguyễn Văn Tường cùng Phạm Thận Duật và Tôn Thất Đính qua tận Tahiti, (một quần đảo thuộc địa Pháp nằm trên 15 độ Vĩ tuyến Nam & 150 độ Kinh tuyến Tây, nằm giữa Thái Bình dương về phía Đông của nước Úc và phía Tây của Peru - Trung Mỹ), cũng đủ chứng minh rằng, quyết án ấy là vượt quá tầm tay, quyền hạn của De Courcy và những tên khác, như cố đạo gián điệp Puginier, kể cả vua bù nhìn Đồng Khánh, tên tay sai Nguyễn Hữu Độ. Quyền hạn của 4 tên này chỉ trong giới hạn là lãnh thổ nước Đại Nam (Việt Nam) mà thôi, thậm chí hai nơi được quyền lưu đày xa nhất chỉ là Bình Thuận và Cao Bằng (Nam Kỳ đã thành thuộc địa của Pháp).
Như vậy, không chỉ một, mà đến hai bản án, thực chất đều là bản án của chính phủ thực dân Pháp tại Paris và kẻ trực tiếp tiến hành uy hiếp, khiêu khích, đánh chiếm kinh đô Huế, thi hành án đối với Nguyễn Văn Tường là De Courcy.
Bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân không đề cập đến điều cốt lõi này, mà chỉ khái quát “người Pháp không tin nhưng vẫn dùng” . Anh lại nhấn mạnh đến 3 tác nhân khác. Theo anh, đó là Puginier, Nguyễn Hữu Độ, Đồng Khánh. Puginier căm thù Nguyễn Văn Tường vì Nguyễn Văn Tường chủ trương bình Tây phiên, sát tả đạo từ 1873 đến 1884. (Anh không nhắc đến tư liệu Hội Truyền giáo Bắc Kỳ, trong đó, cho đến năm 1889, 4 năm sau, Puginier vẫn còn báo cáo về Pháp, chính Nguyễn Văn Tường đã cùng Tôn Thất Thuyết phối hợp trong phong trào Cần vương sau ngày kinh đô thất thủ, và đã tiêu diệt đến 30.000 dân giáo). Đối với Nguyễn Hữu Độ và Đồng Khánh, anh hầu như chỉ nhấn mạnh sự trả thù của hai tên này nhắm vào Nguyễn Văn Tường. Anh khái quát thành hai tiểu đề mục: “Với Nguyễn Hữu Độ, ân oán cũ, tranh chấp địa vị mới”; “Mâu thuẫn với Ưng Kỹ ngay từ sau ngày vua Tự Đức băng hà cho đến ngày Ưng Kỹ lên ngôi” . Nói cách khác, theo anh, Nguyễn Văn Tường bị lưu đày là do sự trả thù của Puginier, đại diện cho Thiên Chúa giáo, và do mối thâm thù có tính chất cá nhân của tên tay sai cơ hội Nguyễn Hữu Độ và của tên vua bù nhìn Đồng Khánh [**].
Có thể nói rằng, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã đem hệ quả của nguyên nhân chính làm nguyên nhân chính, và hầu như xem nhẹ nguyên nhân chính ấy. Đúng ra, cần nói rõ rõ hơn: Quá trình Nguyễn Văn Tường chống thực dân Pháp, tả đạo Thiên Chúa giáo và chống bọn tay sai, cơ hội, nhân cách kém cỏi, tồi tệ, nhất là sự phối hợp với phong trào Cần vương (“đàm” phối hợp với “đánh”) sau ngày kinh đô quật khởi, bị thất thủ, mới là nguyên nhân chính khiến chúng lưu đày ông. Chúng lưu đày ông vì lí do chính là nguyên nhân chính trị. Hệ quả của nguyên nhân chính ấy là Nguyễn Hữu Độ, Ưng Kỹ nuôi mối tư thù đối với Nguyễn Văn Tường và nhóm chủ chiến. Mối tư thù của hai tên này không phải là nguyên nhân chính trong việc thực dân Pháp và chúng lưu đày ông.
Vô hình trung, theo cách viết của Nguyễn Đắc Xuân, anh đã hạ thấp yếu tố chính trị chống Pháp mà chỉ nhấn mạnh đến mối tư thù, vì tranh chấp địa vị ở triều đình giữa người Việt với nhau !
Nói cách khác, Nguyễn Đắc Xuân đã xoáy lệch trọng tâm vấn đề của sự kiện lịch sử, do dó, hầu như sự kiện lịch sử bị vênh, bị méo hẳn.
Cần phải khẳng định, đối với Nguyễn Văn Tường và nhóm chủ chiến, trong hai tháng sau cuộc kinh đô quật khởi, bị thất thủ và trong nhiều năm tháng trước đó, luôn luôn kẻ thù chủ yếu của ông và của nhóm chủ chiến mà ông đứng đầu, là thực dân Pháp, kế đến là đồng minh “tả đạo” Thiên Chúa giáo của chúng, rồi sau đó mới là bọn tay sai, cơ hội, nhân cách hèn kém, tồi tệ. Thứ tự liệt kê kẻ thù này, từ chính yếu đến thứ yếu, là hoàn toàn đúng với sự thật lịch sử.

4.

Bài viết “Sau ngày thất thủ kinh đô (5.7.1885) Đại thần Nguyễn Văn Tường (1824-1886) khó thoát khỏi bước đường cùng” của nhà nghiên cứu sử học Nguyễn Đắc Xuân đã cung cấp thêm cho người đọc một số tư liệu mới hoàn toàn khớp với các tư liệu đã được phát hiện, giám định và công bố trong bài viết của GS. Nguyễn Văn Kiệm (Kỉ yếu Hội nghị khoa học do Trường ĐHSP. TP.HCM. tổ chức, ấn hành, 19-6-1996) cũng như trong các công trình của TS. Cao Huy Thuần, TS. Yoshiharu Tsuboi… Nếu xét về lượng thông tin khách quan, không tính đến quan điểm, lập trường được thể hiện kèm theo lượng thông tin khách quan ấy, tôi thấy những tư liệu mới trong bài viết của Nguyễn Đắc Xuân cũng hoàn toàn phù hợp với tư liệu gốc Đại Nam thực lục chính biên mà tôi đã trích dẫn trong bài viết “Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi [và bị thất thủ], 05-7-1885” của mình.
Dẫu sao, tôi cũng chỉ là người thuộc thế hệ đi sau, học tập, tiếp bước một người luôn giữ tinh thần dân chủ trong học thuật – nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân –, nhưng theo cách của mình. Tôi vẫn khẳng định những gì tôi đã viết về đề tài nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường và thời đại ông, cho dù ở thể loại nào, nghiên cứu, biên soạn, hay truyện kí – khảo cứu tư liệu lịch sử, và mặc dù các trước tác ấy có những luận điểm, khía cạnh quan trọng khác với anh.
Cũng không thể không ghi công tiên phong và ghi ơn về tâm huyết của nhà nghiên cứu sử học Nguyễn Đắc Xuân trong những chặng đường khó khăn, bức bối nhất của giới văn chương, giới sử học và ngành khoa học xã hội nói chung.
Cuối bài trao đổi có tính chất mạn đàm dân chủ này, xin ghi chú thêm: Những tư liệu viện dẫn trong bài viết “Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi [và bị thất thủ], 05-7-1885” (cùng được đăng tải trên tạp chí điện tử Giao Điểm tháng 8-2005) cũng như các tư liệu khác trong cuốn “Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), ’những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được’” (web Giao Điểm tháng 5-2005) với các xuất xứ đã được ghi rõ theo yêu cầu nghiên cứu khoa học, tôi lại dẫn gián tiếp ở đây.

TP. HCM., khởi viết vào lúc 16 giờ chiều 22-8-2005,
hoàn tất lúc 9 giờ 28 sáng ngày 23-8-2005.

TRẦN XUÂN AN

Chú thích:

[*] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên, tập 29, bản dịch Tổ Phiên dịch Viện Sử học, Nxb. Khoa học xã hội, 1974, tr. 39: “Tỉnh Vĩnh Long có dân [Hoa?] theo đạo Gia-tô tên Kiên nói càn rỡ làm rối loạn lòng dân (nói rằng: tàu Tây dương đã đến nơi, giết hết bọn dân [lương? Việt? – ct.] chúng mày, tao không sợ pháp luật của quan binh mày nữa)…”; sđd., tr. 242: “Nhiếp biện huyện vụ huyện Duy Ninh […] là Đặng Hòa […]. Hòa hay uống rượu, đánh bạc, tham tang hối lộ, nói nhiều điều ngông cuồng (như nói: người Tây dương không lâu cũng lấy mất tỉnh thành, hắn sẽ về quê yên nghỉ)…” . Tất nhiên nhân vật Pha trong tác phẩm “Bước đường cùng” không phải là “dữu dân”, càng không phải là viên chức huyện vụ phạm pháp. Cũng như nhiều nhà văn hiện thực phê phán dưới chế độ thực dân – nửa phong kiến, giai đoạn 1930 – 1945, Nguyễn Công Hoan chĩa mũi dùi công kích vào chế độ phong kiến èo uột, quan liêu, bù nhìn (thời Khải Định, chủ yếu là thời Bảo Đại), chứ chưa dám đánh vào kẻ thù trực tiếp là thực dân Pháp, “tả đạo”.
Ở đây, nhìn rộng ra, đó là phản ứng giai cấp của nhiều người, phản ứng ấy lắm khi là lệch lạc.
Và dẫu sao đây cũng chỉ là một chú thích mở rộng về một chi tiết nhỏ, ngẫu nhiên (diễn dịch từ một cụm từ ngẫu nhiên trùng hợp với nhan đề một tác phẩm!). Xin xem chú thích này là không liên quan gì đến bài viết trên.

[**] Trong khi đó, Nguyễn Văn Tường chỉ khinh ghét Nguyễn Hữu Độ, thấy y là một tên tay sai nguy hiểm, cần phải trừng phạt thích đáng, và ông chỉ xem thường Ưng Kỹ, chứ chưa phải đến mức căm thù chúng.

TXA.

_______________________________________________


V à m ộ t b ú t k í …
BÀI THỨ MƯỜI MỘT

Bài đã đăng trên Tạp chí điện tử Giao điểm
số tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
posted: 19.9.2005
trong Giọt Mực, Cánh Đồng và Vở Kịch Điên
tập thơ thứ tám của Trần Xuân An


MỘT CHÚT TỰ BẠCH:
GIỮA VÒNG TAY TAM KỲ VÀ BÈ BẠN


bút kí

yêu quá dáng người nết đất
nơi nơi xa thành thiên thai

(Quê quán,
trong tập thơ Lặng lẽ ở phố, 1995)

Kính tặng cha tôi,
một người yêu quê hương, Đất nước,
theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam,
được miễn học tập cải tạo sau Ngày Thống nhất 30.04.1975.


Tặng: Nguyễn Đăng Chín, Cao Văn Phi, Nguyễn Tấn Sĩ, Hoàng Thị Nhụy, Phạm Dương Nam, Võ Công Thảo, Nguyễn Ngọc Khôi, và cộng tác viên thân thiết của nhóm bút: Huỳnh Ngọc Chiến, Trần Ngọc Thọ.


a

Học xong lớp đệ lục ở Quảng Trị, mười hai tuổi rưỡi, Phan lần đầu đến Tam Kỳ và có một mùa hè thị xã. Nhưng mãi đến mùa hè năm sau, khi từ giã ngôi nhà mà Phan được chào đời, từ giã Hàm Nghi – Quốc tử giám, mái trường cổ kính nhất Huế, cổ hơn cả Quốc Học, chú bé này mới thật sự sống với mảnh đất trung tâm chia đều đường sắt xuyên Việt.
Một năm học ở Huế với nỗi lẻ loi, chất thơ của xứ sở trầm mặc đã ngấm vào, gọi dậy những rung cảm mơ hồ, nhưng có khi da diết đến tức tưởi, dù rất vô cớ.
Những con đường xanh. Những khu vườn xanh. Những rêu xanh trên thành quách và vàng son cũ với những vết thương lở loét do bom đạn ...
Huế của chú bé Phan không chỉ thế, Huế còn sinh động với nhiều nơi chốn khác.
Những lần lang thang đến nhạc viện, trường kịch nghệ. Những phòng tranh, rạp chiếu bóng. Những lần có giờ trống, cùng bạn bè qua tòa thượng thẩm xem xử án, bị mê hoặc bởi giọng điệu hùng hồn của luật sư. Và những lần bãi khóa, mít tinh, biểu tình, Phan sửng sốt, khâm phục trước tiếng hát, lời cáo trạng chế độ từ lồng ngực sinh viên, rồi ngỡ ngàng trước sự thăm hỏi của dân biểu quốc hội ngụy ...
Huế của tuổi mới lớn trong Phan như vậy. Huế ấy đã cùng anh vào Tam Kỳ.
Tam Kỳ nhỏ bé với một đường phố sầm uất duy nhất mang vẻ khô khốc.
Nhưng chính ở nơi đây, chất thơ tiềm tàng đâu đó trong nắng gắt và đất cằn đã tạo ra một quê hương của nhiều thi sĩ và chí sĩ.
Bấy giờ, với một cảm thức non nớt, Phan mơ hồ nhận được một điều gì đó không còn sương khói đến mềm ướt hoặc ngỡ như bùng lửa trong không gian quanh mình.

b

Nhớ mãi một gò đất hoang chỉ có một túp lều xiêu vẹo và một ngôi miếu cổ bên gốc cây thấp bốn mùa xanh mướt. Đó là nơi tụ tập của lũ trẻ trong xóm. Đứa lớn nhất cũng là đàn anh của nhóm. Anh ấy mồ côi, thuộc nhiều câu thơ bi thảm, u uất, và cả thơ đầy hào khí nữa. Anh say truyện Kiều với rất nhiều bài thơ luận chiến về Kiều.
Dưới bóng cây trưa, lũ trẻ ngồi nghe anh đọc thơ, bình giảng. Mắt anh mờ đi, có khi gần như khóc, thỉnh thoảng lại chói lên, gần như tóe lửa.
Em về điểm phấn tô son lại
Ngạo với nhân gian một nụ cười!

Dù là chàng trai quá nhiều mặc cảm nhưng anh vẫn rất cảm khái với từ ''Ngạo'' của Thái Can. Giọng Quảng của anh đọc thành ''Ngộ''. Lúc đầu, Phan cứ đinh ninh là anh đã ngộ một chân lí, một triết lí sống để có thể sống được.
Anh là ''người thầy'' của Phan bên ngoài lớp học.
Anh không phải là người đầu tiên dẫn Phan đến cửa ngõ của văn triết. Tuổi ấu thơ Phan đã có những hai ''người thầy'' bên ngoài lớp học như vậy. Nhưng anh vẫn là người đã đánh thức cảm quan vần điệu thống thiết lẫn hùng tráng trong tâm hồn Phan.
Và Phan sau này mới biết gò đất hoang ấy chỉ là một góc nhỏ của Tam Kỳ. Phan còn có ở thị xã này những ''người thầy'' là bạn học cùng lớp, cùng trang lứa nữa.

c

Thầy giáo hướng dẫn năm lớp chín của Phan là một tu sĩ dạy công dân giáo dục kiêm cả hai môn sử địa. Tấm áo chùng trắng toát của Thầy với gương mặt khắc khổ của người ăn uống theo lối tân dưỡng sinh, quanh năm gạo lứt muối mè, như mãi khắc vào trí nhớ Phan. Ấn tượng đậm nhất về Thầy còn đọng mãi trong Phan là cái nhếch môi cay đắng gần như cay cú. Có phải nơi Thầy có một tuổi trẻ bừng sôi máu nóng nhưng thời cuộc đã dập tắt, nên Thầy tìm đến kinh kệ và trường chay để nguôi quên hơn là tìm đường siêu thoát?
Những bài giảng về các thể chế chính trị, về kinh tế với các hình thái, về lịch sử và các vùng địa lí, hầu như bao giờ cũng đượm lẫn một tâm trạng u uẩn.
Khi Thầy đã nhập hồn vào bài giảng, không ai còn nhớ đến tấm áo chùng trắng toát tu sĩ nữa. Thầy cực kì cay đắng với lịch sử cận hiện đại và thời cuộc (1858 – 1973). Đặc biệt, khi giảng về Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, hai nhà chí sĩ kiên cường của quê hương Thầy, Thầy như bị thôi miên bởi chính mình. Ngữ điệu, hình ảnh trong lời văn giảng bài của Thầy vừa cường điệu tạo ấn tượng mạnh, vừa biếm lộng đến chua chát, cay độc, khi chĩa thẳng vào chế độ ngụy Miền Nam Việt Nam đương thời.
Lớp Phan vào dịp Tết năm ấy, có một tờ báo tường rực rỡ dựng ngay trước cửa lớp. Lúc ấy Phan và bạn bè nào biết, tâm trạng của Thầy đã phả vào những bài báo non nớt ấy.
Cảm thức thời cuộc đã được khơi dậy.
Và một ngày hội cổ truyền, cây nêu dựng lên, học sinh mặc áo dài khăn đóng, bộ quốc phục ngàn năm, được tổ chức riêng ở lớp Phan, như đánh thức một tình tự dân tộc bị ngủ vùi trong nếp sống phảng phất chút híp-pi (hippy) hiện sinh của thị xã. Thầy cũng ngạc nhiên, vì Thầy không đề xướng cách tổ chức buổi tất niên như vậy. Đấy là lớp tự động bàn với nhau. Khi lớp bàn bạc, Phan có kể lại một ngày hội của trường Nguyễn Du ở Huế do nhà giáo cũng là dịch giả thơ Đường, người Tiên Phước, Tam Kỳ, tổ chức. Và lớp hưởng ứng như một mạch ngầm bùng dậy.
Lớp chín ấy đã tự hình thành một bút nhóm từ bao giờ chẳng rõ. Những say mê toán học, ngoại ngữ đã bị văn chương, báo chí lấn lướt.
Đặc san mùa hè năm đó có bìa in ty-pô (typo), ruột rô-nê-ô (ronéo) trên giấy tốt. Những bài văn, thơ chứa chan tình quê hương dân tộc. Người mẹ Việt Nam là hình tượng khơi nhiều cảm xúc nhất. Phan viết về Mẹ mình vì Phan xa Mẹ. Phan viết về Mẹ Việt Nam vì Phan mơ hồ cảm nhận Mẹ đang đau xót trong cảnh đàn con xâu xé nhau giữa một thế cuộc đau lòng trên chính Tổ quốc mình, mà căn nguyên là bởi thực dân Pháp, phát xít Nhật, đế quốc Mỹ và ''tả đạo''.
Ban báo chí lớp chín năm ấy gồm những tấm lòng, những nỗi niềm thao thức. Và trường tìm trường giao lưu, ''nối vòng tay lớn''.
Bạn bè cũ còn đó, và mãi còn trong tâm hồn nhau cả những năm tháng sau này:

Tam Kỳ, trời rất thơ ca
thoáng mưa non hạt cho già nắng non
phố phường gió rất trẻ con
reo mai ríu rít hát giòn tan đêm

Cây Tam Kỳ rất anh em
chìa trăm nhánh biếc bao thềm nhà thân
nghe bối rối trước ân cần
như có lỗi giữa vô ngần mến thương

Mắt Tam Kỳ rất thật gương
tôi soi thấy thuở đến trường, bâng khuâng
bạn bè trẻ lại, quây quần
ngỡ đang mới lớn, lớn dần trong nhau!...


Bạn bè cũ còn đó, chắc chắn mãi còn đó một mùa hè dẫu bình thường trong một thời buổi đã xa.
Những nhận thức tuổi ấy còn non nớt biết bao, nhưng những nhiệt tình dễ gì tìm gặp lại trong tâm hồn mình, bởi cuộc sống hôm nay đã khác...
Có một thời, tuổi mới lớn như thế...
Dẫu sao, không thể quên được người tu sĩ với tấm áo chùng trắng toát, trường chay khắc khổ, mang một tâm trạng thường xuyên chua chát, nặng nợ với Đất nước, xã hội hơn là đạo pháp, đạo hữu.

d

Tam Kỳ đã thật sự dẫn dắt Phan và bạn bè chí cốt của mình đến với văn chương.
Ban C (văn chương – ngoại ngữ) năm trước đã có một lớp và đã xuất hiện hai người thơ trẻ trên tập san văn học lớn của cả Miền Nam (Nguyễn Nhật Ánh, và Nguyễn Văn Dũng, tức Luân Vũ, về sau đổi là Ngữ Luân). Năm nay, lớp mười cấp trung học phân ban, ban văn chương – ngoại ngữ có một bút nhóm gần như đông đủ từ lớp chín. Đây là bút nhóm của khuynh hướng trữ tình phê phán với tâm nguyện vì tình tự dân tộc.
Tên của bút nhóm nẩy sinh một cách tình cờ nhưng không tình cờ chút nào từ bài dân ca xứ Quảng. Bắt đầu là rung cảm trước vẻ đẹp của từ ngữ giản dị và làn điệu dân ca lạc quan đùa nghịch. Khi tách riêng ra, thành một cái tên, lại đượm những tâm trạng với nhiều ý nghĩa khác hẳn. Đó là Đất Mẹ, là Màu Da – biểu tượng của Cao Quí Thiêng Liêng.
Bài dân ca ấy từ trong dĩ vãng, trong tiềm thức của quê hương ruộng rẫy đã cất vang lên giữa sân trường trung học một đêm mưa lạnh, bập bùng tiếng đàn ghi ta thùng và bập bùng ánh lửa. Nhóm sinh viên cứu trợ nạn nhân bão lụt Quảng Đà đang tìm về với quê nhà, hong ấm lại tình quê, tình nước trong cơn đói rét. Suốt một tuần lễ, tay kìm, tay búa, cuốc và rựa, học sinh, sinh viên tìm về với dân tộc. Chỉ ở nông thôn, với lũy tre xơ xác, mái rạ xiêu vẹo, với bao người mẹ, người cha khốn khó, bao đứa trẻ bụng ỏng da chì, tình đồng bào ruột thịt, tình tự dân tộc mới thực sự được giữ gìn và còn mãi ấm nóng. Đó là một ngoại khóa mà không bài giảng nào có thể mang lại một chất lửa như thế.
Trong trái tim Phan và bạn bè, chừng vang lên hành khúc, tiếng gọi, để trong những đêm sau đó, còn vọng lên từ đáy lòng mình lời đáp: ''Tổ Quốc ơi, con đã nghe!'', còn văng vẳng lời bài hát do Thầy hướng dẫn lớp sáng tác: Hành khúc Trần Cao Vân.
Bút nhóm thực sự hình thành, đi vào hoạt động. Có một người bạn gái cùng lớp xin gia nhập nữa. Không ai bảo ban, chỉ vẽ. Như một cụm cây tự mọc, tự đâm rễ, bật chồi. Chỉ là một cụm cây bình thường giữa những phong trào gây sóng gió trong lòng đất một cách cũng bình thường lúc bấy giờ. Phong trào du ca sinh hoạt ở các chùa chiền. Phong trào viễn mơ như khát vọng trốn thoát thực tại. ''Đất Vàng'' (Đất nước – dân tộc da vàng) lại nhìn thẳng vào sự thật của thời mình sống, nhìn thẳng vào thao thức của chính tuổi học trò đam mê văn chương của mình...
Có một thời, tuổi mới lớn như thế...
Những trưa rất thơ ca cùng nhau lang thang trên đường đê ngợp bóng hoa vàng, bên con sông lấp lóa cát và nước.
Những chiều làm thơ trong vườn ổi An Thổ xanh ngát, thơm lừng mùi mật mía từ các lò đường, mùi dầu phụng từ các xưởng thủ công, tưởng chừng làm đôi khoảng không gian ven đường làng đặc lại.
Những tứ thơ bất ngờ bật ra dưới bóng rừng dương liễu nhìn ra chiếc cầu đường sắt han gỉ, trong những chiều hôm sau ngày sinh hoạt hướng đạo.
Những đêm thức trắng bên bàn viết.
Nhà Nguyễn Tấn Sĩ như một trại sáng tác. Ông cụ của Nguyễn Tấn Sĩ lại thấy tuổi học trò đam mê văn chương của mình.
Những đêm đầy ắp hương thị vàng thơm và tiếng lá xạc xào sau nhà ...
Bài vở nộp lại, tìm đến căn gác thầy Nguyễn Văn Bổn (Tần Hoài Dạ Vũ) – một nhà thơ phản chiến, chống Mỹ, yêu nước, nổi tiếng trên báo chí công khai lúc ấy. Có lẽ thầy Bổn ngạc nhiên nhưng biết đó là tất nhiên, vì bài giảng và thơ của thầy đọc trong lớp luôn có lửa.
Có một thời, ngọn lửa dân tộc được truyền đi như thế. Truyền, và biết chắc lửa sẽ được nối tiếp truyền đi. Bởi từ lâu lắm rồi bối cảnh xã hội đã chuẩn bị cho những tấm lòng...
Có một thời, tuổi mới lớn như thế...
''Tổ Quốc ơi, con đã nghe!'', một bản nhạc của phong trào và những bài viết đã được in rô-nê-ô, bìa ty-pô. Cảm ơn ông chủ nhà in, anh ruột của một người trong nhóm. Cảm ơn nhà văn Xuân Tùng không kiểm duyệt dù chức năng bắt buộc như vậy.
- Khỏi. Cứ in đi!
Những bích chương với nhiều câu hỏi xoáy vào lòng người do thầy Bổn viết đã được dán đầy ở các cổng trường trung học trong thị xã.
Báo được treo bán ở các quầy sách.
Những chuyến đi xa đến các trường trung học ở các quận. Những phút hùng hồn đầy tình tự dân tộc và thao thức xã hội trước các lớp bạn ở các trường.
Báo với gần 200 bản bán hết vèo trong vài ngày.
Và số 2 là khát vọng ''Xuân thanh bình''.
Lại những đêm thức trắng, viết, đánh máy trên giấy sáp.
Đâu đó có những lời hăm dọa bóng gió, ở các quầy sách, ở quán cà phê chị Được. Báo vẫn ra, số lượng bản nhiều hơn, bài vở khá hơn (dù bây giờ có dịp đọc lại, chắc sẽ thấy quá chừng thô vụng).
Và đột ngột Phan bị chặn đường, xúc lên xe GMC., đưa vào trại tạm giam. Đêm đó, Phan cứ tin mình chỉ bị bắt vì lí do vi cảnh. Chẳng hiểu sao, một thủ lĩnh học sinh rõ ràng có màu sắc Việt Cộng lại ra nằm ở trại tạm giam, bên cạnh Phan.
Anh ta ngỡ Phan là Việt Cộng! Phan chỉ trao đổi vu vơ rồi yên tâm ngủ. Vì lúc ấy, đối lập là chuyện bình thường. Tính chất đối lập, đối trọng đã thành một nếp sống, ngay trong các trường trung học tỉnh lẻ.
Có phải cảnh sát dàn cảnh để tìm đường dây móc nối chăng?

đ

Nhiệt huyết bùng lên rồi tự lịm tắt, không ai cấm, không ai trừng trị, dù ngay cả trong gia đình mỗi thành viên của nhóm. Cái chính là sự bế tắc về tư tưởng...
Tuổi mới lớn của một thời như thế...
Và ngọn gió tình yêu đầu đời, năm mười bảy tuổi, lớp mười một, đã thổi dịu những ray rứt, trăn trở.
Dù trước đó, Phan rất ghét ''viễn mơ'', nhưng khi yêu, Phan lại ''viễn mơ'' như một người không bước trên mặt đất. Thì ra, người ta không thể vượt quá lứa tuổi của mình!
Phan lênh đênh trong mộng tưởng như sương và khói.
Những bài thơ tình của Phan thậm chí không phải viết cho người mình đang thật yêu kia nữa. Chừng như Phan có một tiền kiếp nào đó với một người yêu trong tiền kiếp ấy. Thì hiện tại được chia về thì quá khứ xa xăm.
Trong những tháng năm trước, Phan đã biết rung động với một tình cảm ''hình như là tình yêu''. Mơ hồ. Mong manh. Dễ vỡ.
Chừng như mỗi người đều có một dáng dung vô thức hình thành khi còn tấm bé từ những huyền tượng trong cổ tích, từ những hình tượng trong văn chương, phim ảnh. Có phải đấy là người trong mộng mà không mấy ai có thể gặp trên đời? Và đời người là một hành trình ngược vào sâu thẳm từng tầng lớp thời gian để nhận diện một gương mặt mơ hồ đã kết tinh từ nhiều nguồn đâu đó, và cũng là hành trình phóng tới tương lai để tìm kiếm không nguôi?
Người yêu đầu đời của Phan chỉ là cái cớ cho tình yêu ấy có một hình dáng thật. Tình yêu ấy được đan dệt bằng hàng trăm bức thư, mỗi bức như một tùy bút huyền ảo, có khi gần như một loại tân truyện bay bổng không có một chút cơ sở hiện thực nào trong đời sống.
Cây mộng tưởng ấy không thể sống vì nó làm gì có đất thực tế!
Tình yêu ấy như một giấc mộng dài gần suốt cả năm học. Phan như một kẻ mộng du trong tình yêu, một tình yêu chỉ làm nẩy nở trí tưởng tượng và làm đẹp câu thơ.
Đừng trách gì, hỡi niềm yêu dấu cũ, vì ai có thể sống hoài trong giấc mộng, cho dù là giấc mộng ngọt ngào!
Và tình yêu viễn mơ đến sớm vào tuổi học trò trung học ấy, mãi đến sau này, khi đã trưởng thành, Phan mới biết đó là một sai lầm, không nên có.

e

Chừng như tuổi mới lớn nào cũng có những cơn địa chấn. Phan còn có một trận bão lũ khỏa ngập cả đất trời. Cơn đau của mối tình tuyệt vọng tưởng dìm anh vào cái chết. Phan đã quằn người trong niềm đau.
Cũng mảnh đất Tam Kỳ đó!
Và may mắn thay, ở Phan chừng như có sẵn tự bao giờ một sức bền chịu đựng. Phan không học kém đi. Học và viết vẫn là phương châm được khắc lên bàn học.
Với một cách học ''tài tử'', Phan tìm đọc rất nhiều sách, vì học trình ban C đối với Phan tự bao giờ đã quá hẫng nhẹ. Từ lúc bùng dậy đam mê văn triết, trừ ngoại ngữ, Phan thường ít học lại những gì đã nghe được ở lớp, kể cả môn toán.
Trong những cuốn sách tìm đọc, có một cuốn tình cờ Phan mua được vì rất mỏng nên giá rẻ:
''Kẻ Tuẫn Đạo'' của Unamuno (Ibk).
Hôm đó như một lạ thường, Phan từ nhà Sĩ đi lên, bỗng dưng đâm thẳng qua đường đến tiệm tân dược Ngọc Lan, quặt trái, chứ không quẹo phải như thường lệ. Tiệm sách này không địa lợi lắm và hơi chật chội nên ít người vào.
Tần ngần trước nhiều cuốn sách nhưng không thể mua vì một lí do dễ hiểu, học sinh có bao giờ đầy túi.
Sau khi trả tiền cho cuốn sách mỏng và rẻ ấy, Phan về nhà chúi mũi đọc.
Bàng hoàng như vỡ ra một lẽ thật. Nhưng lạ lùng sao, không có thất vọng đau đớn nào xảy ra trong tâm hồn. Chỉ một địa chấn nhỏ. Có rất nhiều điều người ta đã cảm nhận được nhưng vô thức xua đi, quán tính vẫn ngự trị, và một tác phẩm nào đó chỉ nói lên điều mà vô thức và quán tính bảo phải im lặng như mặc nhiên thừa nhận. Từ mâu thuẫn thăm thẳm không thể nhận biết ấy, người ta vẫn say sưa tìm tòi khám phá khoa học, không chấp nhận một giả thuyết nào chưa được thực nghiệm chứng minh và lô-gích học bảo là hợp luận lí, nhưng vẫn sùng tín những huyền tượng như một thói quen hoặc như một nhu cầu. Và cơ hồ mỗi người đều có riêng một hình ảnh về huyền tượng từ sự tiếp nhận, tái tạo theo lí tưởng thẩm mĩ, lí tưởng sống riêng của mình một cách biện chứng tâm linh, có khi khác xa với nguyên thủy đến không ngờ. Hầu như con người tôn thờ chính khát vọng thăng hoa của mình từ bi kịch của đời sống. Tôn giáo và văn chương nghệ thuật phải chăng có chung cội rễ là Nỗi Đau và ước vọng Giải Thoát, Cảm Thông.
Sách xác tín giúp Phan một điều còn mơ hồ chưa dám nói và cũng không nên nói làm gì, dù sau này, sách vẫn luôn luôn gợi cho anh sự tự tra vấn để tự giải đáp, như một nỗi-niềm-hoài-nghi-khoa-học không nguôi, cho đến khi anh gặp Spinoza (IIbk).
Nhưng quả thực, từ lúc ấy, Phan đủ can đảm để sống khác đi. Tâm hồn anh vẫn khát vọng chân lí và sự thật. Ở đời, có ai thích dối trá, cho dẫu là dối trá lương thiện hoặc ''lẽ thật'' qua ngàn năm đã thành dối trá! Đâu riêng gì Phan.
Phan thân với một tu sĩ Phật giáo. Nhờ là bạn bè cùng lớp, Phan mạnh dạn trao đổi với người bạn tu sĩ ấy. Thì ra, từ rất lâu, Phật giáo đã biết thế nào là huyền thoại và thế nào là ''thực nghiệm tâm linh'', như kết quả của sự tương tác xa xưa giữa Lão học và Thích học (IIIbk).
Vâng, tôn giáo, là một hình thái ý thức chưa thể thay thế, và nó không thể chính-trị-hóa. Cũng không thể tôn-giáo-hóa-chính-trị để thay thế tôn giáo (IVbk).
Không có tôn giáo chắc chắn loài người không đạt đến mức nhân đạo như ngày hôm nay. Nhưng cũng không có cái gì trưởng thành mà không có tuổi ấu thơ của nó, và ấu thơ thì dĩ nhiên, rất hay huyền thoại hoá!
Cơn địa chấn, trận bão lũ nào rồi cũng qua đi.
Có điều, phải chăng vì căn cơ (tạng chất), Phan đau niềm đau tình yêu quá chừng đau đớn, mà sự khám phá qua khải thị của Unamuno về ''Đạo'', dù mang lại sự choáng váng thất vọng, vẫn chỉ là niềm đau xen lẫn với một nỗi niềm không hẳn là buồn!
Phan lại tự tin hơn trong nhận thức, với một nhận thức nhân sinh, một vũ trụ quan không tôn giáo.
Có những vùng đất mà ở đó, diễn ra những bước ngoặt của nhận thức, tâm hồn mình, làm thay đổi cuộc đời mình, ngỡ chừng như sống một cuộc sống khác, thì làm sao quên được!
Hầu như mỗi người có nhiều mảnh đất chôn nhau cắt rốn khác nhau. Những lần sau không phải nhờ cha mẹ, chỉ do chính mình tự sinh nở và cắt chôn.
Con người tự làm nên chính mình trong điều kiện bất kì nào của hoàn cảnh. Con người phải có tự do, độc lập của riêng nó, để trở thành Con Người. Anh học được điều này từ thể nghiệm bản thân và cuộc sống bạn bè.
Phan vẫn xem Tam Kỳ là nơi anh đã từng chết đi và tự tái sinh. Đó là Đất Thánh của riêng trái tim anh, là Quê Hương của riêng tâm hồn anh.

g

Tình yêu như cơn gió thoảng suốt năm. Tình yêu như trận bão làm gãy đổ hết thân cành của một đam mê gần như cơn say thơ ca ngây ngất, mãnh liệt và đắm đuối. Nhưng thân cành còn non và bộ rễ còn khỏe, cây lại đâm chồi nẩy lộc.
Bên cạnh tình yêu, một sự kiện chính trị lớn xảy ra trên Đất nước: những ngày tháng trước và sau hiệp định Paris 1973.
Sân trường được tổ chức như một diễn đàn.
Cuộc đối thoại nẩy lửa giữa học sinh và sinh viên sĩ quan Đà Lạt, khiến sự đơn điệu buồn tẻ trong nghiêm trang nhường chỗ cho không khí sôi động, cởi mở.
Cũng vô thức, không hề chuẩn bị trước, Phan đã ứng khẩu một bài phê phán kịch liệt chế độ với những câu hỏi nhức nhối. Những điều này chưa ai nói cho anh: Nhà tù cưỡng bức và thực chất chính quyền bù nhìn (Vbk).
Nhóm sinh viên sĩ quan Đà Lạt cực kì trí thức và nghiêm túc đến khô cứng, dẫu đã được huấn luyện để đối phó trước mọi tình huống bất ngờ, vẫn không che giấu xúc động. Những trí thức mặc đồ lính ngụy ấy không bối rối mà xúc động, và lạ thay, lại đồng cảm, chia sẻ cùng Phan những băn khoăn! Phan không thể chấp nhận sự phi nhân và Phan không thể chấp nhận một tầng lớp lãnh đạo Miền Nam của Đất nước từng là sĩ quan của thực dân! Hầu như sinh viên sĩ quan Đà Lạt cũng vậy. Bởi đó là một sự thật lịch sử không ai không thấy. Và mọi người đành chấp nhận! Lịch sử bày ra một ván cờ trớ trêu. Giai đoạn lịch sử này là một kẻ có đầu óc điên rồ, nếu có thể ví von như vậy.
Hai mươi năm ấy phải chăng như một sự thật oái oăm và một tấn tuồng bi hài, mà Phan, bạn bè Phan và cả nhóm sinh viên sĩ quan ngụy kia chỉ là nạn nhân, lại là nạn nhân bi đát ''vì ý thức được tính bi kịch'' (VIbk) trong hoàn cảnh lịch sử mình đang sống. Phải chăng, tận đáy lòng, ai cũng có những khổ tâm riêng?
Lúc bấy giờ, tưởng chừng như vô thức lên tiếng nói và cũng vô thức đồng cảm trong mấy trăm học sinh trước sân trường.
Những tràng pháo tay biểu lộ sự đồng cảm ấy.
Không chỉ Phan. Lên diễn đàn còn có người bạn tu sĩ và một vài bạn khác với nhiều vấn đề buốt bỏng khác.
Phan quả là ''gã nghệ sĩ'' trẻ tuổi liều lĩnh một cách chân thành. Quả thực, anh chỉ là gã con trai mới lớn đa tình (với nhiều loại tình cảm) đến mê đắm, và không ngớt băn khoăn trước những vấn nạn của cuộc sống tâm linh và xã hội. Phan vừa đam mê vừa tỉnh táo, vừa nhút nhát vừa táo bạo, vừa sai lầm vừa sáng suốt.
Dẫu mang một gương mặt trầm buồn, trong anh vẫn sống động một người nghệ sĩ dám dấn thân, trải nghiệm đến giới hạn của đức lí, với đôi mắt mở to luôn ngạc nhiên, hiếu kì một cách hồn nhiên. Anh muốn dấn thân trên con đường sống thật để sáng tạo.
Dẫu sao, anh vẫn chỉ là gã con trai mới lớn!

h

Có một kỉ niệm không thể quên được. Chẳng biết bây giờ người học trò rất nông dân mang dép cao su như ''Việt Cộng'' thuở ấy còn sống hay đã chết. Còn sống, anh ta đã leo lên đến bậc ghế nào và cống hiến những gì.
Từ hôm đối thoại giữa sân trường bốc lửa, có người học trò ở một lớp lớn hơn bỗng mang dép cao su lốp xe tìm cách làm quen cùng Phan.
Anh ta chỉ vào đôi dép đang mang và nhìn Phan mỉm cười.
Phan cũng chuyện trò vu vơ.
Những ám hiệu không cùng tần số như chớp lóe rồi tắt lịm trong cuộc đời.
Mãi sau này, Phan có dịp ngẫm lại, cái tính chất bồng bột đến khờ khạo một cách chân tình ở tuổi thanh niên thật dễ thương và cũng quá dễ để gặp tai họa. Tại sao anh học trò Việt Cộng ấy dám bật tín hiệu với Phan trong khi quá biết Phan sống trong một gia đình không có ai dính líu gì với tổ chức của họ, thậm chí, dù muốn dù không, cũng là đối phương của họ?
Sau lần ấy, thỉnh thoảng anh ta vẫn cười với Phan mỗi khi thoáng gặp ở sân trường hay trước hiên nhà. Như một kỉ niệm của tuổi trẻ, lắm khi nhớ lại, những lần gặp gỡ ấy gợi lên chút cảm động nhẹ nhàng. Có phải nhờ vậy, sau này Phan đã ''bị'' thuyết phục (đúng hơn, là được thuyết phục)?
Phan vẫn tin ở tấm lòng tuổi trẻ. Khi còn tuổi trẻ, dù với chính kiến, hàng ngũ nào, người ta vẫn còn nơi tâm hồn mình cả một trời trong sáng. Vòm trời giữa tâm hồn tuổi trẻ không hề có biên giới và rào gai. Và một khi sự thật lịch sử đã sáng rõ, chỉ một ''địa chấn'', họ dễ dàng tiếp cận chân lí xã hội chủ nghĩa, nhất là liên lập trong liên minh quốc tế (một vấn đề khắc khoải nhất!) (VIIbk), nếu nhận thức được tính tương đối của chân lí! Không hề có một thứ chân lí bất biến và tuyệt đối trên đời, nữa là chân lí chính trị – xã hội, vốn là một thứ chân lí phải luôn linh hoạt co giãn theo thực tiễn!

i

Rồi Phan lại xa Tam Kỳ. Chỉ ba niên học ở thị xã nhỏ bé ấy nhưng chất chứa biết bao nhiêu kỉ niệm. Những năm đầu bước vào lứa tuổi thanh niên là những năm xáo động dữ dội và, phải chăng gần như có tính chất quyết định cho mỗi đời người?
Tam Kỳ – một thị xã chia đều đường sắt xuyên Việt, bé nhỏ, duy nhất một đường phố sầm uất, khô khốc – lại là nơi chất thơ tiềm ẩn giàu có trong hồn người.
Tam Kỳ, nơi ấy, có những nhà thơ lãng mạn và hiện thực tên tuổi, có những tu sĩ, thầy giáo trăn trở, day dứt không nguôi. Nơi ấy, thật sự đã có một khí hậu tinh thần riêng để lớp trẻ nối nhau vươn dậy trong khát vọng ngấm ngầm mà cháy bỏng về chân lí nghệ thuật và chân lí cuộc sống. Nơi ấy, cuộc sống ngỡ chừng đơn điệu, buồn tẻ nhưng vô cùng sôi sục, với những tiếng nói vô thanh xao xuyến tự mỗi trái tim thành khẩn, không giống nhau.
Nhà thơ Huy Tưởng lớn lên ở đó, với rất nhiều đêm gục đầu trầm tư về thân phận con người trong niềm cô độc cùng cực, đã ra đi, làm nên nhiều bài thơ tuyệt vời cho Nỗi Đau, thỉnh thoảng trở về. Trong một đêm thơ nhạc do nhóm Đất Hứa tổ chức, anh đã chống nạng quay mặt ra cửa sổ lập lòe đom đóm như ma trơi oan khuất, như bao nhiêu vì sao trên đất tối, không thèm nhìn vào ánh đèn sáng, đọc trầm thống bài ''Hồ trường'' (VIIIbk) khắc khoải. Hình như anh muốn đọc cho đất trời nghe.

kẻ trượng phu
không hay [ai?] mổ gan bẻ cật
phù cương thường
hà tất tiêu dao lưu lạc tha phương
trời Nam ngàn dặm thẳm!
non nước một màu sương!
chí chưa thành danh chưa đạt
trai trẻ bao năm mà đầu bạc
trăm năm thân thế bóng tà dương!

vỗ gươm mà hát
giốc bầu mà hỏi
thiên hạ mang mang ai người tri kỉ
lại đây cùng ta cạn một hồ trường!

hồ trường!
hồ trường!
ta biết rót về đâu?
rót về phương đông, nước biển đông sinh
cuồng loạn
rót về phương tây, mưa tây sơn từng trận
chứa chan
rót về bắc phương, ngọn bắc phong vi vút
đá chạy cát bươn [vươn?]
rót về nam phương, trời nam mù mịt thẳm
có người quá chén như điên như cuồng!

nào ai tỉnh nào ai say
chí ta ta biết, lòng ta ta hay
nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ
hà tất tương phùng [cùng sầu?] với cỏ cây!


Nhà thơ Thành Tôn thành danh trên báo chí cả Miền Nam vẫn âm thầm trong bộ quân phục. Anh sống và làm việc với phận sự một người lính ngụy lặng lẽ. Anh đâu biết rằng chính sự hiện hữu một cách câm nín của anh ở thị xã, quá đỗi câm nín, vẫn vang vọng những làn sóng đến những trái tim trẻ về thơ ca.
Và nhà văn Xuân Tùng, thầy Nguyễn Văn Bổn (nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ), thầy Trương Sư Xuyên và anh Nguyễn Hữu Thâu...
(Xin được thắp ở đây một nén nhang tưởng tiếc Ngữ Luân, một người thơ tài hoa còn quá trẻ).
Những trí thức ấy, những tấm lòng ấy, ở một nơi như Tam Kỳ thân yêu, chính họ, đã tạo ra một khí hậu cho tuổi trẻ. Họ tạo ra một trường ảnh hưởng mà họ không hề hay biết.
Phan và bạn bè anh cũng không hề hay biết về khí hậu ấy, dù đã thực sự sống trong tiếng động tương tác thầm lặng của vùng khí hậu rất riêng ở thị xã của một thời đã xa kia.
Cuộc sống cứ mãi hoài trôi đi một cách vô thức. ''Người ta sống là để sống'', chứ không thể cứ mãi chiêm nghiệm về cuộc sống, phần lớn là mảnh vụn thường ngày. Muốn chiêm nghiệm phải cần một độ lắng cần thiết của thời gian.
Phan đang ngoảnh lại đời mình những năm mới lớn và ngỡ ngàng bâng khuâng cho những vụng dại, những say mê quá đỗi vô tư. Đúng hơn, là cả một đam mê cháy bỏng khát vọng sáng tạo (đến mức chỉ với bức xúc vặt, Phan xin rời bỏ gia đình để về ở chung với bạn, những tháng cuối của năm học lớp mười một!).
Nỗi đam mê cháy bỏng về khám phá, sáng tạo thơ ca dễ khiến người ta đến với tình yêu hơi sớm (để làm thơ tình cho người lớn!), dễ xúi dại người ta tự trở thành đứa con hoang (chứ không phải thoát li gia đình để làm công tác cách mạng!)! Từ khí hậu kia hay từ trái tim Phan, vang vọng lên tiếng gọi, bàng bạc mà tha thiết, hướng tới chân trời là trang giấy trắng, lóng lánh nét chữ ghi lại những câu thơ của lòng mình, chút lòng mình gửi đến cuộc đời.
Mỗi người đều có một tuổi mới lớn của riêng mình, và chắc chắn đều có lắm thú vị. Cuộc sống mãi mãi thú vị, cho dù bi kịch đến mức nào, nếu ta thoát được và có dịp ngoảnh nhìn lại bi kịch ấy. Vượt qua bi kịch, mắt sẽ sáng hơn, chân sẽ vững hơn trên đất đai Tổ quốc. Phan cũng vậy. Xin được mỉm một nụ cười về những năm tháng đã trở thành xa xưa. Tam Kỳ – Xa Xưa ấy đang không ngừng chảy trong máu anh và trong máu bạn bè.
Ước chi mãi là một hạt sương bé nhỏ được lóng lánh khát vọng rất thơ ca và không chỉ cho riêng mình – Phan và mỗi bạn bè Phan có lẽ đều nghĩ thế.

TRẦN XUÂN AN
Viết ngày 28.X.1993
Sửa chữa, bổ sung ngày 04.VII.1995
tháng 10.1996 và tháng 05.2003
tại TP. HCM
.

(Bài đã đăng trong Kỉ yếu Bốn mươi năm
thành lập Trường Trần Cao Vân, Tam Kỳ,
Quảng Nam, 1955 – 1995
).

Cước chú của bài bút kí “Một chút tự bạch: Giữa vòng tay Tam Kỳ và bè bạn” (bút kí, viết tắt là bk):

(Ibk) Trần Xuân Kiêm dịch, Quế Sơn - Võ Tánh xb., Sài Gòn, 1971.

(IIbk) Vượt qua hoàn cảnh bi kịch bằng óc phân tích và thái độ dũng cảm.

(IIIbk) Nhất Hạnh, Đạo Phật đi vào cuộc đời, Lá Bối xb., Sài Gòn, 1966.

(IVbk) Xin xem cuối bút kí này.

(Vbk) ''Không có thì đánh cho có, có thì đánh cho chừa'' (''khẩu hiệu'' nhà tù Mỹ - ngụy).

(VIbk) Vận dụng một nhận định văn chương.

(VIIbk) Xin xem cuối bút kí này.

(VIIIbk) Bài "Hồ trường" của Nguyễn Bá Trác (1881 - 1945). Đó là một kẻ sĩ đã từng tham gia phong trào Duy Tân, Đông Du, sang Nhật. Đang học tập dở dang, ông phải về Trung Quốc khi Nhật đã câu kết với Pháp, trục xuất du học sinh Việt Nam. Sau đó, Nguyễn Bá Trác đành sống trong tâm trạng u uất, bi phẫn, bế tắc, và rồi y lại phản bội, làm tay sai, ngụy quan cho giặc Pháp. Cuối cùng, y phải đền tội. Cũng như Phạm Quỳnh, y bị chính quyền Việt Minh xử bắn. Dẫu sao, bài thơ trên cũng đã thể hiện hết tâm trạng của những người thuộc trường hợp như Nguyễn Bá Trác, trong giai đoạn cực kì bế tắc hồi đầu thế kỉ.
Tuy nhiên, một tác phẩm văn chương thông thường được cảm thụ theo tâm trạng của người đọc hơn là vì nhớ đến tác giả.
Đó là điều tôi muốn nhấn mạnh, trước khi xin được nhấn nhạnh thêm điều cốt yếu sau đây: Trong những năm bảy mươi của thế kỉ trước (XX) ở Miền Nam, bài "Hồ trường" khá thịnh hành bởi tâm trạng bế tắc của vài thế hệ (từ tuổi thanh niên đến tuổi lão niên), và bởi dù muốn dù không, họ cũng đành phải "thoả hiệp" với chế độ Mỹ - ngụy và "tả đạo".
Có tư liệu cho rằng Nguyễn Bá Trác chỉ là dịch giả của bài thơ trên.

(IVbk) Hình thái ý thức tôn giáo thật sự không có, trong thực tế văn hoá truyền thống của đại đa số nhân dân ở một số nước châu Á, cụ thể là Việt Nam, mà chỉ là đạo lí thờ cúng anh hùng, danh nhân dân tộc và tổ tiên. Nói chính xác hơn, bên cạnh đại đa số nhân dân chỉ sống theo đạo lí dân tộc thuần tuý ấy, còn có một bộ phận nhân dân theo Phật giáo, Lão giáo, và có thể kể cả một bộ phận khác theo học thuyết nhân sinh – xã hội, ấy là Nho giáo. Nho giáo rất ít bàn về hình nhi thượng, từ chối việc suy tư về cõi siêu hình, thần linh và ma quỷ. Về tác dụng cải hoá con người, xã hội của văn hoá, hoặc của tôn giáo, xin khảo sát theo phương thức nghiên cứu khoa học về quá trình lịch sử và đời sống thực tại của các đối tượng nghiên cứu: đại đa số nhân dân không theo một tôn giáo nào, mà chỉ sống theo đạo lí dân tộc thuần tuý, và các bộ phận nhân dân dân ít hơn có theo một tôn giáo, kể cả Nho giáo. Từ đó, đối sánh, rút ra kết luận. Và có thể nói thêm: August Comte (1798 – 1857), một triết gia thực chứng xã hội học người Pháp, ra đời muộn hơn Nho giáo đến hơn hai mươi thế kỉ; ông thường được đề cập đến trong học phần triết học lớp 12 trước 1975 ở Miền Nam Việt Nam. Mặc dù có những sai lầm của ông, August Comte cũng chính xác trong việc phân định ra ba thời kì phát triển của phương pháp tư duy và thế giới quan của nhân loại. Ba thời kì đó là: tư duy thần thoại, tư duy tôn giáo, tư duy khoa học (thuần lí và thực nghiệm). August Comte còn đề nghị bãi bỏ tôn giáo nhất thần (như Thiên Chúa giáo, Tin Lành ...), có thể bãi bỏ cả tôn giáo đa thần, để chỉ tín ngưỡng một thực thể siêu hình, trừu tượng, tối cao, tương tự như ý niệm Trời của Nho giáo (Trời chỉ là lí – khí, ''thiên hà ngôn tai!” [Trời có nói gì đâu!]). Theo tôi, căn cứ theo dự đoán tương lai của nhân loại, tôn giáo sẽ được phát triển thành các triết thuyết thuần tuý, không còn tính chất tôn giáo (không còn các hình thức thờ phụng, kinh kệ, lễ bái như hiện còn tồn tại ở các chùa chiền, giáo đường, thánh thất, nhà nguyện...); và hình thái ý thức văn hoá, bao gồm cả phong tục (trong đó có mĩ tục thờ cúng anh hùng, danh nhân dân tộc và tổ tiên, suy nghiệm về lịch sử nhân loại), bao gồm cả giáo dục, văn học nghệ thuật (nhất là trên các phương tiện truyền thông đại chúng), sẽ được lành mạnh hoá theo hướng ''văn dĩ tải đạo'' (đạo đức truyền thống, đạo lí dân tộc) để thay thế hình thái ý thức tôn giáo. Nói gọn hơn, trong tương lai của nhân loại, văn hoá lành mạnh sẽ đảm nhiệm trọn vẹn chức năng của tôn giáo.

(VIIbk) Tác giả xin trình bày rõ hơn:
Niên khoá 1971 – 1972 trước đó, mặc dù chính nhân vật Phan đã chọn bài hát “Tổ quốc ơi, ta đã nghe” của La Hữu Vang làm chủ đề cho số 1 của tập san (chỉ đổi chữ ta, có nghĩa là tôi, thành chữ con), nhưng sau đó Phan lại có một bước thụt lùi trong tư tưởng. Đúng như biện chứng (''đường zíc zắc'', ''đường xoáy trôn ốc'') của quá trình trưởng thành, từ cảm tính thiên tả, anh đã nhận thức lại một cách lí tính, ít thiên tả hơn! [...] ... Bấy giờ, năm 1973, chỉ mới có ý niệm về chủ nghĩa xã hội khoa học, chưa nhận thức đủ về chủ nghĩa xã hội hiện thực (trong thực tế lịch sử), nhân vật Phan trong bút kí lại được hướng đến chủ nghĩa xã hội quốc gia theo kiểu Nam Tư, nhưng không phải chịu sự độc tài như ách độc tài của Tito, lại hoàn toàn độc lập dân tộc, hoàn toàn dân chủ, thoát khỏi sự khống chế, lệ thuộc vào Liên Xô (gồm mười ba nước bị sáp nhập), Trung Quốc (gồm cả Tây Tạng ...) hoặc một trong hai nước ''cộng sản bá quyền (đế quốc đỏ)'' ấy. Chủ nghĩa xã hội quốc gia chỉ là một hướng mở, xuất phát từ ước vọng độc lập, tự do, dân chủ thật sự, thoát khỏi hai gọng kềm lịch sử trên thế giới, đứng đầu là đế quốc Mỹ và Nga, rồi sau đó là Mỹ và Nga – Trung. Bấy giờ, vẫn vào năm 1973, hai chữ ''liên lập'' và cụm từ ''liên minh quốc tế cộng sản'' chỉ được hiểu là bị khống chế, lệ thuộc như đã nói, chứ không phải là liên minh trong tư thế bình đẳng quốc gia, dân tộc đích thực! (Khoa học lịch sử đúng nghĩa không thể không khẳng định sự thật lịch sử ''liên lập'' trong ngoặc kép nháy nháy ấy!).
Dẫn đến nhận thức đó còn do nguyên nhân khác, tạo nên sự khắc khoải, thao thức đồng thời với nguyên nhân trên. Xin trình bày cụ thể hơn:
''Trên tinh thần hoà giải dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc vững mạnh, giữa hai miền Nam, Bắc, với niềm cảm thông chân thật, thiết tưởng cũng cần phải nói rằng: Sở dĩ một bộ phận không ít người Miền Nam Việt Nam không thể tham gia kháng chiến, hoặc vượt tuyến ra Miền Bắc, cũng vì lẽ đó. Và cũng trên tinh thần ấy, xin mạnh dạn nói rõ hơn: Ngoài ảnh tượng chân dung các ''giáo chủ'', lãnh tụ ngoại quốc (chưa kể danh từ ''xô-viết'' trong cuộc khởi nghĩa Xô-viết Nghệ – Tĩnh, 1930 – 1931), còn có vấn đề là màu cờ đỏ, hình tượng sao vàng, búa liềm vàng. Từ các ảnh tượng ấy, màu cờ và các biểu trưng ấy, không thể không nghĩ đến Miền Bắc Việt Nam bị lệ thuộc vào Liên Xô, Trung Quốc, và thân phận Trung Quốc cũng chẳng khác gì (Liên Xô sinh nở ra Trung Quốc!), mặc dù về sau hai nước lớn ấy có ''bất hoà'' với nhau.
Cái được gọi là nhận thức ấy chắc hẳn không phải bị chi phối bởi tâm lí giai cấp ở miền trong của Đất nước, vì cũng như Miền Bắc, tại Miền Nam đại đa số vốn là nông dân (liềm), một phần khác là thợ thuyền (búa), có truyền thống trọng thị chân lí và kẻ sĩ (ngôi sao). Có thể cái còn gọi là thao thức kia chỉ là hậu quả của sự tuyên truyền. Tuy nhiên, thao thức có thật ấy, trong giai đoạn lịch sử đó, quả thật cũng xuất phát từ sự nhận thức khách quan của rất nhiều người, một nhận thức đã hoá thành nỗi băn khoăn nhức nhối, đọng lại ở các câu hỏi: 1. Chủ quyền Miền Bắc Việt Nam thuộc về ai? 2. Ở Miền Bắc, liệu truyền thống thờ kính cội nguồn tổ tiên, thắp hương tại các đình làng, chùa chiền có được tồn tại? Và tại sao trong nhà sàn Bác Hồ không có bàn thờ gia tiên, theo truyền thống đạo lí của dân tộc Việt Nam ta? Đó cũng là sự thật lịch sử – sự thật về tuyên truyền của Mỹ – ngụy, nhưng cũng là sự thật ở nội tâm một phần không ít nhân dân Miền Nam Việt Nam. Nhận thức ấy, thao thức ấy, có lẽ chỉ tồn tại trước tháng 4 năm 1975; phải chăng sau đó đã được giải toả; hay bị củng cố thêm bởi hiện thực hằng ngày trước mắt?
Tất nhiên, từ khi diễn ra công cuộc Đổi mới, tình hình đã khác.
Kính mong hãy cảm thông, hoà giải, và đại đoàn kết. Chỉ có thể đại đoàn kết dân tộc một cách bền vững trong tinh thần cảm thông, hoà giải ấy. Làm sao có thể đại đoàn kết được nếu những mặc cảm trong chiến tranh không được giải toả trên cơ sở sự thật lịch sử – sự thật lịch sử đúng như nó đã diễn ra, không bị vo tròn, bóp méo! Tuy nhiên, phải khẳng định và phải khẳng định: Những người cầm súng, làm quan chức cho thực dân Pháp, phát xít (fascisme) Nhật, đế quốc Mỹ và ''tả đạo'' Thiên Chúa giáo, ở Miền Nam Việt Nam (không ít là dân Miền Bắc di cư vào Nam), rõ ràng là bị đẩy vào tình cảnh phản quốc hay ít nhiều cũng tự ý phản quốc. Trong số người bị đẩy vào tình cảnh phản quốc một cách hết sức đau đớn ấy, có một phân số khá lớn là bị kẹt giữa hai gọng kìm lịch sử (một gọng kìm là Pháp + Mỹ + "tả đạo", và, có thể kể thêm Nhật; một gọng kìm khác là Nga Sô + Trung Cộng + chủ nghĩa cộng sản vô thần). Số người thuộc trường hợp này có lòng yêu nước, căm hận Pháp + Mỹ + "tả đạo", căm hận Nhật, và hơn thế nữa, họ cũng rất căm ghét bọn ngụy đích thực, cam tâm làm tay sai đầu sỏ cho bốn loại giặc ngoại xâm ấy, nhưng bị buộc phải cầm súng, làm quan chức cho chúng (hoặc chỉ cầm súng, làm quan chức cho một trong bốn kẻ thù dân tộc vừa liệt kê). Vì vậy, cho nên dẫu sao đi nữa, họ cũng không thể chính danh là một trong những "lực lượng yêu nước", mà bị gọi chung là "ngụy". Nói cụ thể hơn, đằng sau danh từ "ngụy", có nhiều loại người khác nhau, trong đó không ít người thật sự yêu nước với chính kiến rõ rệt; bi kịch của họ là đã dựa vào Pháp + Mỹ + "tả đạo", và Nhật để chống Nga Sô + Trung Cộng + chủ nghĩa cộng sản vô thần với ý định sẽ lần lượt bẻ gãy hai gọng kìm lịch sử ấy. Nhưng, chỉ là ảo vọng! Rốt cục, phải chịu mang tiếng là ngụy. Danh đã không chính, thì ngôn không thuận. Có người lòng dạ là rất yêu nước, nên rất khổ tâm, nhưng đã là ngụy quân, ngụy quyền, họ không thể nói cho người khác thuận nghe được, cho dù chỉ là giãi bày tâm sự. Đó là nỗi đau của họ. Vả lại, những người thuộc dạng có lòng yêu nước thật sự nói trên, bọn thực dân, phát xít, đế quốc, "tả đạo" thường không sử dụng. Bất đắc dĩ chúng cũng sử dụng tạm thời hoặc chỉ sử dụng ở những chức vụ thấp, ở cấp tỉnh, cấp quận, không quan trọng, và ít nguy hiểm đối với chúng.
Xét về lực lượng kháng chiến, từ các tổ chức cộng sản sơ khai (trước 1930), đến Việt Minh (Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, từ tháng 8.1941), và có lẽ sau 1954, ở Miền Nam thường gọi là Việt Cộng (Cộng sản Việt Nam), nhận định chung là thế nào? Sau khi đám mây mù tuyên truyền của ngoại xâm và ngụy tan đi, ai cũng thấy rõ sự thật lịch sử là: Hết sức hiển nhiên, lực lượng nào đánh bại được Pháp, Nhật, Mỹ, ''tả đạo'' Thiên Chúa giáo, bá quyền Trung Quốc, đánh đổ được ngụy triều Huế (1885 – 1945) (II.19), ngụy quyền Sài Gòn (1954 – 1975), chế độ diệt chủng Khơ Me (Kh'mer) Đỏ, chính danh và chính nghĩa thuộc về lực lượng ấy. Đó là đa số nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có một sự thật (tuy chỉ giới hạn nhất định là qua báo chí, đài phát thanh, truyền hình trong nước), sự thật đó là, mặc dù không một ai trên thế giới này có thể phủ nhận được chiến thắng hiển hách, lừng lẫy của lực lượng kháng chiến Việt Minh, Việt Cộng, nhưng vẫn có người, nhất là một số Việt kiều ở hải ngoại, vẫn không chấp nhận Việt Minh, Việt Cộng là chính danh, chính nghĩa, thậm chí còn chống Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam một cách cuồng dại!''.

Ghi chú bổ sung của tác giả:

Người đọc có thể tự cắt bỏ (tự kiểm duyệt) hoặc lướt qua, hoặc tốt nhất là phản biện, bác bỏ, nếu không đồng ý với tác giả. Tất nhiên, tôi vẫn bảo lưu sự thật lịch sử đó cho nhân dân Miền Nam Việt Nam, nhất là sự thật lịch sử đã đọng lại ở các câu hỏi đầy băn khoăn, thao thức, nhức nhối đã ghi lại ở bên trên. Một lần nữa, tác giả xin thưa rằng: Tôi viết để ghi nhận chính xác một khía cạnh sự thật lịch sử về một bộ phận đông đảo nhân dân Miền Nam thuộc giai đoạn sau (1930 – 1975) của cuộc chiến tranh 117 năm (1858 – 1975) hoặc đúng hơn là 131 năm (1858 – 1989), vốn đã trôi qua khá lâu, để góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam chúng ta và đoàn kết nhân loại, trên tinh thần tôn trọng sự thật lịch sử, cảm thông, điều chỉnh (sửa sai) và hoà giải.
Xin cảm ơn.

TXA.



Ghi chú về tác giả:
Trần Xuân An
(có bài kí bút danh: Trần Ngôn Sử)
Sinh ngày 10. 11. 1956 tại Huế;
Nhân tộc: Kinh (Việt Nam);
Quê gốc: Quảng Trị;
Tốt nghiệp khoa ngữ văn Việt ĐHSP. Huế (1974 – 1978);
Dạy học tại Lâm Đồng, 1978 – 1983;
Hiện nay, chuyên sáng tác, nghiên cứu
(Hội viên Hội Nhà văn TP. HCM.).

1971, cùng bạn bè chủ trương tập san Đất Vàng, trong giới học sinh ở Tam Kỳ (Quảng Nam – Đà Nẵng), với bút hiệu Huyên Đình (Người Mẹ).
1973, “Tiếng chuông xưa” , bài thơ lãng mạn đầu tiên in trên Tuổi Ngọc.
1975, được tặng thưởng “Một trong mười bài thơ hay nhất trong năm” của báo Văn nghệ Giải phóng.
1991, giải Sáng tạo trẻ, Hội VHNT. Quảng Trị.

DANH MỤC
TÁC PHẨM, SOẠN PHẨM, BIÊN KHẢO
CỦA TÁC GIẢ
(tính đến 2005)

Tác phẩm đã xuất bản và đã đăng kí bản quyền tại Cục bản quyền tác giả văn học nghệ thuật Việt Nam:

1. Nắng và mưa, thơ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
2. Hát chiêu hồn mình, thơ, Nxb. Đồng Nai, 1992.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap2.blogspot.com/
3. Tôi vẫn ở trên đường, thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1993.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap3.blogspot.com/
4. Lặng lẽ ở phố, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantthitap4.blogspot.com/
5. Kẻ bị ném vào bão, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap5.blogspot.com/
6. Hát với đời ơi thương mến, thơ, Nxb. Trẻ, 1996.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap6.blogspot.com/
7. Quê nhà yêu dấu, trường ca thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1998.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantruongcatho7.blogspot.com/
8. Có một nơi lá mãi xanh, tiểu thuyết, Nxb. Hội Nhà văn, 1999.
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
9. Ngôi trường tháng giêng, tiểu thuyết, 1998, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
10. Sen đỏ, bài thơ hoà bình, tiểu thuyết, 1999, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/
11. Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử, trọn bộ 4 tập, 2002 – 2003; Nxb. Văn Nghệ TP. HCM.
http://www.giaodiem.com tháng 11-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
12. Ngẫu hứng đọc thơ, phê bình thơ, 2003; NXB. Văn Nghệ TP. HCM., 2005
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm

Tác phẩm đã hoàn tất bản thảo:

13. Mùa hè bên sông (Nỗi đau hậu chiến), tiểu thuyết, 1997; hai bản đã sửa chữa và bổ sung, 2001 (lần hai) và 2003 (lần ba).
Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com tháng 6-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
14. Thơ những mùa hương, thơ.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
http://tranxuananthitap9.blogspot.com/
15. Giọt mực, cánh đồng và vở kịch điên, thơ.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
16. Nước mắt có vị ngọt, tập truyện ngắn, 1999.
http://www.giaodiem.com tháng 10-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm

Soạn phẩm biên khảo đã hoàn tất bản thảo:

17. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (biên soạn – nghiên cứu, phản bác, và tập hợp một số bản dịch, bài khảo luận văn học và sử học về NVT.), 2000 & 2003.
http://www.giaodiem.com tháng 8-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
18. Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường – “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp” (từ Đại Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn chi tiết, phần I, 2001.
19. Những trang Đại Nam thực lục về Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và các sự kiện thời kì đầu chống thực dân Pháp… (Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học VN.), chọn lọc, phần II, 2001.
20. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, 2002 & 2003. Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
21. Suy nghĩ về một số vấn đề trong lịch sử cổ đại nước ta, khảo luận, 7.2004.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm

Địa chỉ:
71B Phạm Văn Hai,
Phường 3, quận Tân Bình
(cửa hiệu PHAN HUYÊN)
TP. HCM.
ĐT.: 08.8453955
& 0908 803 908
Email: tranxuanan_vn@yahoo.com


TRUY CẬP THÊM CÁC ĐỊA CHỈ WEBs/ BLOGs
(Xin bấm vào LINKs sau đây):

http://tranxuananthitap9.blogspot.com/
http://tacphamtranxuanangiaodiem.blogspot.com/
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap4.blogspot.com/
http://tranxuananthitap3.blogspot.com/
http://tranxuananthitap6.blogspot.com/

http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
http://tranxuananthitap2.blogspot.com/
http://tranxuanantruongcatho7.blogspot.com/
http://tranxuananthitap5.blogspot.com/

http://tranxuanantieuluan.blogspot.com/

HOẶC CÓ THỂ BẤM VÀO DÒNG CHỮ
WIEW MY COMPLETE PROFILE
Ở BẢNG ABOUT ME
ĐỂ ĐỌC NHỮNG TÁC PHẨM KHÁC CỦA TÁC GIẢ
TRÊN WEBs / BLOGGER.


NGOÀI RA, CÓ THỂ TRUY CẬP THÊM
CÁC TÁC PHẨM SÁNG TÁC, KHẢO LUẬN, BIÊN SOẠN CỦA TÁC GIẢ
TRÊN TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ GIAO ĐIỂM
(Xin bấm vào các đường LINKs sau đây):

http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm


Trân trọng và cảm ơn.
TXA.

Trần Xuân An
Địa chỉ:
71B Phạm Văn Hai,
Phường 3, quận Tân Bình
(cửa hiệu PHAN HUYÊN)
TP. HCM.
ĐT.: 08.8453955
& 0908 803 908
Email: tranxuanan_vn@yahoo.com

hidden hit counter